CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI
HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI

Đoàn Xuân Kiên

 

1          Cộng đồng Việt Nam hiện nay là một cộng đồng đa dạng, bao gồm rất nhiều những yếu tố đối lập nhau: quốc nội và hải ngoại, quốc gia và cộng sản, lương-giáo, trẻ-già... Trong mỗi thành phần này lại phân hoá thêm nhiều nưă. Cộng đồng hải ngoại chẳng hạn, gồm rất nhiều thành phần: bắc-nam, hoa-việt, cực đoan-ôn hoà, thủ cựu-cấp tiến, trẻ-già, tị nạn cũ-mới... Tổ chức người Việt mọc ra như nấm, và phản ảnh tầm nh́n, quan điểm cuả mỗi nhóm, và rất nhiều khi chỉ muốn phủ định sự có mặt cuả những nhóm khác ḿnh. Sự phồn tạp như thế tự nó cũng có nét đẹp cuả nó, là thể hiện tinh thần tự do cuả con người; chỉ khi nó lạm dụng quyền tự do để đi đến hành động muốn triệt tiêu kẻ khác, th́ có "vấn đề" đấy.
 
2          Từ mấy thập niên vưà qua, khung cảnh thế giới mà chúng ta đang sống là một khung cảnh có những biến động lớn, đưa đến những đổi thay lớn trên quy mô quốc gia cũng như trên tầm mức thế giới. Có ba yếu tố chi phối mạnh đến sự đổi thay cộng đồng thế giới ở nưả sau thế kỉ XX, nhất là tứ hai thập niên cuối cuả thế kỉ XX:
            Trước hết là sự phát triển phi mă cuả tin học và vai tṛ cuả nó trong đời sống. Tin học phát triển đă thúc đẩy sự thông tin liên lạc, đă mở rộng cánh cưả để mỗi cá nhân hay cộng đồng có thể mở cưả ra thế giới rộng lớn. Tin học càng phát triển th́ càng xoá bỏ t́nh trạng cô lập cuả các cộng đồng. Khả năng tiếp xúc gia tăng th́ tầm hiểu biết về thế giới càng tăng. Sự phát triển tin học đă làm đảo lộn cách nh́n cuả con người đối với thế giới, thu hẹp dần ảnh hưởng cuả lề thói tư duy thiển cận, cố chấp. Đây là nhân tố làm thay đổi sinh hoạt văn hoá cuả cộng đồng thế giới. Lằn ranh giưă tiến bộ và lạc hậu, giưă cô lậu và hoà đồng trở nên rơ ràng hơn, dứt khoát hơn.
            Yếu tố thứ nh́ là sự thay đổi cuả thế giới tư bản và cộng sản trong nưả sau thế kỉ XX, đă vượt bỏ những cách nh́n thế giới và xă hội như là giai đoạn trước và sau thế chiến II. Hoạt động kinh tế-xă hội ở nưả sau thế kỉ XX đă phát triển khác hẳn trước kia: h́nh thái tư bản độc quyền không diễn tiến theo như tiên đoán cuả người cộng sản. Các công ti đa quốc gia càng ngày càng phát triển, cùng nhịp với sự phát triển các cộng đồng kinh tế khu vực trên thế giới. Sự đối đầu đă không c̣n chỗ đứng, mà thay thế bằng thái độ hợp tác để cộng tồn. Đó là xu thế chung cuả thế giới tư bản. Khối thế giới cộng sản cũng trải qua những khủng hoảng lớn, bắt đầu từ phong trào xét lại (thập niên 1960), tiếp đến là phong trào đổi mới (thập niên 1980), rồi tan ră. Cả một cảnh quan thế giới đă tàn lụi, để đưa đến một "trật tự thế giới mới". Đây là một chuyển biến rất mới cuả cục diện thế giới trong hai thập kỉ qua. Sự thay đổi của thế giới ngày nay mang đậm tính cách của những xung đột giưănhững nền văn minh khác nhau, hay nói khác đi là sự sung đột ở cơ tầng văn hoá.
            Yếu tố thứ ba là, về mặt sinh hoạt tinh thần cũng đang trải qua một sự thoát xác lớn lao chưa từng thấy trong suốt một thế kỉ sôi động cuả sinh hoạt văn hoá. Các tư trào đă thay chân nhau trong những thời hạn rất ngắn ngủi. Đến cuối thế kỉ XX th́ trong nhiều điạ hạt trí thức, người ta nói nhiều đến "thời ḱ hậu-hiện đại" như một thời thượng tri thức. Cốt lơi cuả "chủ nghiă hậu hiện đại" [1] là sự nhận thức cuả văn hoá hiện đại rằng phải  phá bỏ hết mọi huyền thoại về sự hiểu biết chân lí cuộc sống. Con người trong thế giới hiện đại đứng trước một viễn ảnh rất chông chênh: những ǵ ḿnh hiểu biết về thế giới chỉ là một hạt cát sông Hằng, chẳng có tư thế ǵ ḿnh có thể hănh tiến để phê phán, kết án cái biết cuả người khác.
            Xu thế chung cuả thế giới ở cuối thế kỉ XX là một sự đương đầu với thái độ độc đoán cố chấp về mặt văn hoá, đểø tiến đến một cộng đồng thế giới đa nguyên. Trước kia, sau thế chiến II, thế giới chia thành những khu vực đối đầu nhau, khiến cho tất cả các khối ảnh hưởng đă trở nên những khối pḥng ngự. Nhưng khi bước vào thập niên 90, thế giới xoay đổi gia tốc. Không c̣n đối đầu, chẳng c̣n pḥng ngự. Mà chỉ c̣n tiến công vào sự lạc hậu, phân hoá, thù hận. Trên sân khấu cuả cộng đồng thế giới đang diễn ra sự cộng tồn cuả những yếu tố đối kháng nhau, và ở một mức độ nào đó đang có sự đấu tranh giưă những yếu tố đó, như một tất yếu cuả sự vận động xă hội. Cục diện mới cuả thế giới đang là tiền đề cho một kỉ nguyên đa nguyên đang trên đà thành h́nh trên khắp các mặt cuả cuộc sống. Một cảnh quan văn hoá mới cuả thế giới chăng ? Hăy c̣n quá sớm để kết luận như vậy. Chỉ có một điều đă hiển nhiên là hệ thống giá trị mới, tư tưởng đa nguyên, đang là sự vận hành mới cuả văn hoá thế giới.
 
3          Sự vận động cuả cộng đồng Việt Nam chúng ta không thể tách rời sự vận động chung cuả khung cảnh văn hoá. Văn hoá Việt Nam đă trải qua những biến động lớn từ hơn năm trăm năm nay, kể từ khi văn hoá Đại Việt [2] đạt đến đỉnh cao cuả nó rồi, bắt đầu trải qua thời ḱ suy thoái cuả nó. Những bất ổn chính trị, sự sa sút về giá trị tinh thần phơi bày ra trên bề mặt sinh hoạt xă hội ở đầu thế kỉ XVI là những dấu hiệu mở đầu cuả một thời ḱ khủng hoảng văn hoá, những dấu hiệu chỉ báo về một thoái trào cuả văn hoá Đại Việt. Hệ giá trị tinh thần do sự tổng hợp tư tưởng và nhân sinh quan tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Lăo giáo) đạt được ở thời ḱ mà Trần Quang Khải đă cảm khái rất tự hào: "Lí đại quan hà nhị bách niên" (giang san nhà Lí  trải dài qua hai trăm năm) và Trúc Lâm Yên Tử (thế kỉ XIII), khi sang đến triều đại nhà Lê th́ đă trở nên nghèo nàn, sa sút. Các vua nhà Lê đă theo xu hướng chung cuả học phong Đông Á mà đưa Tống Nho [3] lên điạ vị độc tôn. Kịp đến khi người phương tây đến giao thương với đất Đại Việt, kéo theo đó là sự truyền bá tín ngưỡng Ki-Tô-Giáo và sau nó là văn hoá phương tây, th́ văn hoá Đại Việt chính thức bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Kỉ nguyên văn hoá mới cuả dân tộc đă manh nha từ đây.
            Liên tiếp trong ṿng năm trăm năm lại đây là những xung đột xă hội bắt rễ từ những xung đột văn hoá nghiêm trọng: giưă hệ ư thức phong kiến Tống Nho và hệ tư tưởng phi-Nho, giưă văn hoá phong kiến và văn hoá dân gian, giưă văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại nhập.
            Một nét lớn cuả văn hoá Việt Nam trong suốt thế kỉ XX là ở tính cách đấu tranh quyết liệt giưă các thành phần cuả văn hoá dân tộc. Đạt mức căng thẳng cao độ là những thập niên cuối cuả thế kỉ XX. Ở trên kia đă nói qua về những thành phần đối kháng nhau trong sinh hoạt văn hoá chúng ta trong mấy chục năm qua. Nếu chỉ liệt kê ra, dù có theo từng cặp đối lập, th́ cũng không tránh khỏi vụn vặt; chúng tôi nghĩ là có thể quy những thành phần đối kháng nhau đó vào hai thành phần chính, dưạ trên tính cách cuả chúng trong mối quan hệ lẫn nhau: "văn hoá mới" và "văn hoá cũ". [4]
Ở đây, chúng tôi hiểu văn hoá cũ là những hệ thống giá trị tinh thần đang là hệ giá trị chính thống của mộ thời, xem như những khuôn mẫu về giá trị cuả một cộng đồng, và là hệ quy chiếu giá trị cho mọi h́nh thái sinh hoạt văn hoá cuả cộng đồng đó trong một thời ḱ lịch sử nhất định. Một cộng đồng càng có chiều dày lịch sử th́ sự tích luỹ những hệ giá trị càng phong phú.
Ngược lại, văn hoá mới là những hệ giá trị đương h́nh thành, có thể là kết quả cuả sự kế thưà và phát triển từ những hệ giá trị cũ, mà cũng có thể là do sự phản động lại những hệ giá trị cũ. Cần nói ngay là ư niệm cũ mới ở đây chỉ là những cái mốc cuả quá tŕnh tiến hoá, không phải là những phán đoán giá trị. Trong quá tŕnh biện chứng sinh thành th́ văn hoá mới hôm nay sẽ là cũ trong tương lai.
            Bên cạnh hai h́nh thái chung sống không hoà b́nh giưă văn hoá cũ và văn hoá mới, cũng cần ghi nhận thêm một hiện tượng thứ ba: sự lẩn tránh những áp lực của thời mới. Nói cho cùng th́ đây chỉ là dấu hiệu cuả sự phân hoá thành phần văn hoá cũ mà thôi. Không muốn đối đầu giưă cũ và mới, một thành phần cuả hệ giá trị cũ t́m được một tuyến pḥng ngự khá an toàn, ấy là làm văn hoá thuần tuư, có người gọi là "tô bồi quốc học".
            Phải nói ngay rằng trao truyền văn hoá cho thế hệ trẻ là một nhu cầu thường xuyên, dù là văn hoá cũ hay văn hoá mới, dù là ở trong nước hay ở ngoài nước. Trao truyền văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ là trao lại tấm căn cước văn hoá cuả một cộng đồng dân tộc. Chuyện đáng nói ở đây là thái độ chọn lưạ cuả một thành phần cuả cộng đồng: thái độ lẩn tránh việc nhận diện bản chất chính trị cuả cuộc đấu tranh giưă hai hệ giá trị văn hoá cũ và mới. Văn hoá dân tộc đang phải đương đầu một thử thách lịch sử, đang cần phải lột xác để đi vào kỉ nguyên văn hoá mới. Vậy th́ thái độ nào là thái độ chính đáng cuả người làm văn hoá ? Xây dựng và tô bồi quốc học, nhưng là thứ quốc học cuả bọn trí thức hương nguyện hay là thứ quốc học do những nhà yêu tiến bộ trong suốt dọc dài lịch sử bốn ngh́n năm góp phần tô bồi ?
            Một ư thức tô bồi quốc học không thể không gắn liền với ư thức về những hệ giá trị cuả mỗi thời ḱ tiến hoá cuả văn hoá dân tộc. Thế hệ trẻ cần được giảng cho thấy là tiền nhân chúng ta chưa bao giờ toạ hưởng văn hoá dân tộc như một mâm cỗ thần ḱ. Quốc học đă phải là những vận hành, những đấu tranh giưă những hệ giá trị cũ và mới, cấp tiến và thủ cựu ở mỗi thời ḱ lịch sử. Một ví dụ rất nhỏ: nếu hôm nay, thế hệ trẻ Việt Nam được t́m hiểu về hệ thống tư tưởng Nho Gia th́ tất nhiên không thể tránh việc phải t́m hiểu về những nhà nho kiệt xuất ở những chặng lịch sử khác nhau: Chu An, Nguyễn Trăi, Ngô Th́ Nhậm, Phan Bội Châu... Tất cả những nhà nho ở trên dọc dài lịch sử đều học một sách, sống và nghĩ theo cùng một hệ tư tưởng. Vậy mà sao lại có nhà nho hương nguyện, và nhà nho cấp tiến? Sự khác biệt chỉ là do tinh thần "tư duy độc lập" cuả những sĩ phu mỗi thời. Người trí thức đúng nghiă là những người có tinh thần phê phán, chứ không phải là những kẻ "tận tín thư" (tin cả vào sách vở). Ngô Th́ Nhậm chính là người như thế. Ông là một khuôn mặt nhà nho lớn ở thời suy vi cuả văn hoá Đại Việt. Con người ông là hiện thân cuả những suy nghĩ lớn vượt thời đại, mà bọn nho sĩ sử quan thiển cận không thể hiểu được, nên đă buông lời xằng bậy về ông.
            Đặt câu hỏi trên đây là để nhận rơ một thực trạng xă hội hiện nay: không thể làm văn hoá thuần tuư cách lià thái độ nhận thức nhu cầu tất yếu cuả lịch sử dân tộc, là vận hành về tương lai. Cho nên, nếu trống đồng Đông Sơn có linh thiêng th́ hăy dóng lên tiếng trống thúc giục dân tộc sớm h́nh thành kỉ nguyên văn hoá Việt Nam, v́ đă năm trăm năm máu và nước mắt rồi. Nếu trống đồng có khôn thiêng th́ cũng cần phải hiểu cho rằng không bao giờ lịch sử dân tộc lại quay trở lại kỉ nguyên Văn Lang đâu, dẫu cho kỉ nguyên ấy có là thời hoàng kim cuả dân tộc từ hai ba ngh́n năm trước. Cũng thế, thời hoàng kim cuả văn hoá Đại Việt là thời ḱ huy hoàng kéo dài hai trăm năm. Nhưng thế kỉ XXI sắp tới đây lại không phải là thế kỉ XI-XIII, mà lịch sử cũng không quay trở lại ngược chiều kim đồng hồ bao giờ! Cái c̣n lại cuả văn hoá Văn Lang và Đại Việt thật ra th́ vẫn c̣n đó: tô bồi quốc học đúng nghiă là phải vận dụng gia sản cũ vào những hoàn cảnh đất nước mới, để góp phần h́nh thành những giá trị văn hoá mới. Nh́n nhận gia sản văn hoá tổ tiên như vậy th́ mới thấy thái độ lẩn tránh sự đối đầu giưă hệ giá trị cũ và mới là một thái độ ảo tưởng.
 
4          Cộng đồng Việt Nam sẽ đi về đâu ? Trong t́nh h́nh rối nát như hiện nay, liệu cộng đồng này có sắm được vai tṛ ǵ trong cuộc vận động văn hoá mới ? Cho đến nay, chúng ta có thể nhận ra là có ít nhất ba quan điểm rất trái ngược nhau về cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại:
            Quan điểm thứ nhất cho rằng cộng đồng người Việt hải ngoại trước kia là một tập thể ô hợp, không định hướng, và nhất là thiếu lănh đạo. Đến gần đây, khi những làn sóng Việt kiều về thăm nhà, th́ có người nghĩ rằng “cộng đồng hải ngoại” hầu như đă tan ră dần. Cộng đồng như thế chỉ c̣n là một đám đông vô danh, và sự gắn bó giưă các cá nhân và tập thể với nhau chủ yếu là trên cơ sở kinh tế, tiêu dùng. Hoạt động văn hoá, giáo dục? Ư thức yêu nước yêu dân tộc? Khó có thể h́nh dung là có những loại hoạt động như thế ở hải ngoại! Một rừng sách báo, phim ảnh, điă hát ở hải ngoại chỉ thu gọn lại là những món hàng tiêu thụ, để người ta giải trí như người ta thưởng thức một bát phở ngon! Nói cách khác, cộng đồng người Việt hải ngoại dường như đang như một bóng mờ sắp tan loăng. Cho nên những ai c̣n có ḷng với đất nước không nên phí công vận động hô hào đoàn kết với những bóng ma. Những người hoạt động dân chủ trong nước đang cần chúng ta hỗ trợ hơn.
            Quan điểm thứ nh́ lại cho rằng cộng đồng hải ngoại là một tập hợp những người con dân cuả đất nước vẫn không phụ rẫy đất mẹ. Và cộng đồng hải ngoại từ hai mươi năm nay vẫn đóng góp phần cuả nó vào việc phục hưng đất nước: số ngoại tệ khổng lồ hằng năm về tiếp cứu cho thân nhân nhưng cũng là gián tiếp giúp đất nước tỉnh lại sau những cơn thoi thóp v́ sự quản lí tồi tệ ở trong nước. Đến nay, sau hai mươi năm tích luỹ tài nguyên quư giá là nhân tài và vật lực, cộng đồng hải ngoại có thể sẽ c̣n có nhiều đóng góp phần ḿnh vào việc xây dựng đất nước trong tương lai. Chính v́ vai tṛ rất tích cực như thế, cộng đồng hải ngoại xứng đáng có một chỗ đứng trong cộng đồng dân tộc. Cộng đồng hải ngoại phải nhận ra sức mạnh  tiềm tàng cuả ḿnh để nghiêm chỉnh nhận thức khả năng đóng góp cho việc thúc đẩy cho đất nước tiến nhanh trên con đường dân chủ và phát triển.
            C̣n một quan điểm thứ ba về vấn đề cộng đồng: hăy tạm không nên nghĩ nhiều quá về mối quan hệ giưă cộng đồng hải ngoại và đất nước. Mối quan hệ như thế phải là mối quan hệ hai chiều. Nhưng hiện nay, dường như chưa ai thực sự biết rơ đất nước - hay cụ thể hơn, những người trong nước- nghĩ ǵ về người ở nước ngoài. Những kẻ ra đi khỏi nước hăy nh́n rơ thực tại, hăy làm cái ǵ để xây dựng một cộng đồng đúng nghiă là một tập thể có nghiă lí, có bản sắc văn hoá, có đủ tŕnh độ và tư cách để tự giới thiệu chính ḿnh với cộng đồng thế giới. Cộng đồng hải ngoại cho đến nay chưa hề có một tư thế nào trước mặt thế giới cả. Chúng ta có những nhà trí thức tài danh, những sứ giả văn hoá cuả dân tộc ở khắp thế giới. Vậy mà h́nh như hai mươi năm nay, h́nh như tất cả chúng ta đều là những kẻ vắng mặt trước cộng đồng thế giới.
            Chúng tôi nghĩ ba cách nh́n về cộng đồng trên đây tuy là khác nhau, nhưng đă nói lên ba khiá cạnh khác nhau cuả cộng đồng hải ngoại hiện nay. Tưởng không c̣n cái nh́n nào triệt để hơn là tổng hợp cả ba cách nh́n. Cộng đồng có những biểu hiện tiêu cực (phản ảnh qua quan điểm 1) là từ những nguyên nhân rất cụ thể. Khi khắc phục được những yếu tố đó th́ mới mong nghĩ đến xây dựng cộng đồng (quan điểm 3) tiến lên cùng nhịp cuả cộng đồng dân tộc và cộng đồng quốc tế. Có lẽ lúc đó mới dám mong nghĩ đến những đóng góp cuả nó đối với đất nước (quan điểm 2).
Vậy th́ đâu là nguyên nhân cuả t́nh trạng phân tán bát nháo cuả cộng đồng hải ngoại? Cho đến đây, chúng ta mới chỉ xét những nguyên nhân từ những xung đột văn hoá cũ và mới. Nhưng đến đây có lẽ phải thêm một nguyên nhân tâm lí rất quan trọng nhưng h́nh như lại chưa được nhận diện đầy đủ và nghiêm chỉnh. Đó là bóng ma cuả "hội chứng tị nạn" (refugee syndrome).
            Hội chứng tị nạn là tập hợp những triệu chứng tâm lí thần kinh bệnh, thường gọi là t́nh trặng căng thẳng thần kinh kéo dài. Đó là kết quả cuả một chuỗi dài những thống khổ lớn, gây nên những chấn động tâm lí cùng tột. Cơn chấn động tâm lí này hầu như tuyệt đại bộ phận dân Việt, ai cũng trải qua: có thể là những hoang mang tột độ cuả người cán binh trong rừng mưa bom, cuả người chính quyền miền nam trước và sau biến cố sấm sét 30.4.75; có thể là những nhục nhằn và uất ức đau khổ v́ chế độ đối xử trong các trại tù cải tạo; có thể là tâm trạng tủi nhục, hắt hủi cuả đời sống những kẻ bên lề xă hội....Mất mát ! Đó là nét nổi bật cuả tâm sự cuả những người bị đẩy xuống "đáy điạ ngục". Cho đến ngày phải chia xa cùng đất nước, nơi có bao người thân, bao nhiêu kỉ niệm vàng son... Khi đặt chân lên vùng đất lưu vong, người tị nạn càng ư thức rơ hơn nưă những mất mát vô cùng lớn cuả ḿnh, những mất mát không thể đền bù.
            Cho dù những thống khổ phải chịu đựng ở quê nhà, rồi trên đường vượt biển có thể qua đi, những chấn động tâm lí vẫn để vương lại những hội chứng tâm lí nặng nề ở những cấp độ khác nhau. Tất cả những cảnh huống thương tâm kia sẽ công phá bản ngă từng người, có thể sẽ trở thành những vết thương không bao giờ lành được. Sự mất mặt, mất quyền lợi, sự bị làm nhục, làm mất phẩm cách... đă gặm nhấm tự tin cuả con người, để rồi sẽ bùng ra không kiềm chế được khi phải bỏ đất nước ra đi.
            Hội chứng tị nạn sẽ phai dần theo thời gian, nhất là khi con người đă tạo được một chỗ đứng chân trong xă hội lưu vong. Tự tin là yếu tố chế giải được hội chứng tị nạn. Cũng có thể là do sự hỗ trợ tinh thần cuả gia đ́nh bè bạn, hoặc những phương thức điều trị tâm lí (tôn giáo, nhà thương, nghệ thuật). Nhưng có một số người phải chịu đựng rất lâu, thậm chí không thể giải gỡ nổi hội chứng tị nạn. Những biểu hiện cuả t́nh trạng kéo dài "hội chứng tị nạn" có thể là: tâm lí nuối tiếc dĩ văng, luôn luôn lôi dĩ văng ra đánh bóng lại để chạy trốn cái hiện tại u buồn, kém tự hào; cũng có thể là thứ tâm lí hoài nghi và tâm lí bất măn với tất cả mọi thứ chung quanh. Trong ḷng nhiều người đă nhen nhúm ư muốn trả thù, để đ̣i bồi thường lại những mất mát, đoạ đầy ḿnh phải chịu v́ một cuộc đổi đời.
            Hội chứng tị nạn đă là nguyên nhân ẩn giấu cuả những hành vi bạo động cuả những con người đang t́m cách đ̣i bồi thường cái thế giá đă bị tước đoạt, hoặc nói chung là tất cả những mất mát to lớn trong đời. Nhưng khốn nỗi, kẻ thủ phạm đă đày đoạ ḿnh, đă làm nhục ḿnh, th́ lại không có mặt quanh ḿnh. Những người thân mến chung quanh đă trở thành những những bao cát để cho ḿnh đấm, cho ḿnh dày xéo. Bạn bè ḿnh hôm qua bỗng dưng cũng có thể bị lôi ra tố khổ, thay cho một kẻ thù vắng mặt. Trong rất nhiều trường hợp, người bạn đường giấu mặt này đă trở thành một đồng minh đắc lực cuả hệ giá trị văn hoá cũ, trong thành tích đập phá, huỷ hoại cộng đồng.
 
5          Hơn hai mươi năm qua, cộng đồng hải ngoại không ngừng loay hoay t́m một hướng đi tới, lại thiếu những con người giàu khả năng lănh đạo để làm một cuộc phục hưng thế giá cuả cộng đồng hải ngoại. Mà khi đă thiếu lănh đạo ở ngoài th́ cộng đồng này có là cái ǵ đâu trước thế giới ! Khi chúng ta chỉ là một con số không vĩ đại th́ đất nước có xem chúng ta là cái ǵ ! Trong muôn ngh́n tập thể người Việt các nơi, đang có những cá nhân và tổ chức âm thầm học hỏi, rèn luyện ḿnh để chuẩn bị đóng góp phần ḿnh cho tập thể. Người lănh đạo thật sự -dù là cá nhân hay tập thể- phải là người trưởng thành từ trong thực tiễn hoạt động ở đây và lúc này.
            Hiện nay, có một thứ vốn rất quư mà cộng đồng hải ngoại đă may mắn tiếp nhận được trên đường lưu vong, là được học sống dân chủ trong một xứ sở tôn trọng quyền tự do cuả con người. Đó là điều kiện căn bản để học tiếp nhận những giá trị mới trong cuộc đời. Văn hoá dân tộc chúng ta đang trải qua những biến động mà có nhiều người đă xem như là những cơn khủng hoảng bản sắc dân tộc. Chúng ta c̣n tự do để trao truyền lưả văn hoá cho con em, chúng ta c̣n những đóng góp nhỏ nhoi vào hoạt động khoa học đủ mọi ngành. Và trên hết, nếu chúng ta c̣n trao truyền được ư thức văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ, chúng ta sẽ c̣n nhiều cơ may góp phần tạo lực đẩy cho văn hoá dân tộc sớm định h́nh kỉ nguyên "văn hoá Việt Nam" sau hơn năm trăm năm máu và nước mắt rồi.
            Tuỳ vào đảm lược cuả ḿnh, thế hệ người Việt bước vào thế kỉ XXI có thể sẽ được vinh hạnh góp phần ḿnh vào việc phục hưng văn hoá mới cho dân tộc ở kỉ nguyên "văn hoá Việt Nam" theo cùng một nhịp với việc xây dụng cơ sở văn hoá mới, văn hoá cuả kỉ nguyên đa nguyên cuả cộng đồng thế giới - một thế kỉ Ánh Sáng mới chăng ? Cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng thế thôi. Tuỳ đảm lược cuả ḿnh mà cộng đồng này sẽ chỉ là một ốc đảo lạc lơng, một ngón tay thứ sáu cuả cộng đồng dân tộc, hay sẽ là một thánh Gióng trên hành tŕnh xây dựng hệ giá trị văn hoá mới cho dân tộc. Để khỏi hổ thẹn với cái "bốn ngh́n năm văn hiến".
 
                                                                                              Đoàn Xuân Kiên
 
 
 


[1] Chủ nghiă "hậu hiện đại" (post-modernism) xuất hiện rải rác qua những thời điểm khác nhau, tuỳ theo từng ngành tri thức. Ở trong bài này, chúng tôi nh́n nó ở giai đoạn đă phổ biến, tức là vào thập niên 80.
[2] Chúng tôi nh́n lịch sử văn hoá dân tộc theo chiều lịch sử tiến hoá th́ nhận ra ba kỉ nguyên văn hoá lớn: (1) kỉ nguyên văn hoá Lạc Việt (Văn Lang) mà đỉnh cao là văn hoá Đông sơn (với trống đồng và văn minh luá nước); (2) kỉ nguyên văn hoá Đại Việt là kết quả cuả cuộc giao lưu với văn hoá Hán tộc, mà đỉnh cao là văn hoá Lư-Trần; (3) kỉ nguyên văn hoá Việt Nam đang trên đường h́nh thành suốt từ khi bắt đầu giao lưu với văn hoá thái tây, với đủ các trào lưu tư tưởng nối tiếp nhau nhưng đều có một sắc thái chung là duy lí, nhị nguyên. Hậu quả cuả t́nh trạng này là chiến tranh (máu và nước mắt) không ngừng. Đỉnh cao cuả văn hoa ở "kỉ nguyên Việt Nam" chưa thấy một dấu hiệu nào là đang định h́nh ! Xin trở lại vấn đề này trong một dịp khác.
[3] Chúng tôi dùng từ ghép Tống Nho để phân biệt với hệ thống tư tưởng triết học Khổng Nho. Khổng Nho là phần tinh tuư cuả Nho Giáo khi chưa bị chế độ phong kiến Trung Hoa và các nước Đông Á biến làm công cụ ư thức hệ bảo vệ quân quyền. Hán Cao Tổ là người đầu tiên đă có ư muốn thống thuộc nho sĩ. Đến các vua nhà Tống th́ bọn nho sĩ đă hoàn bị việc đưa Nho học lên hàng công cụ tư tưởng để củng cố vương quyền. Chính hệ thống tư tưởng nho gia đời Hán và đời Tống đă là nguồn triết lí chính trị cho chế độ phong kiến tập trung. Nh́n trên b́nh diện văn hoá th́ góp chung Khổng Nho và Hán-Tống Nho là một sự khiên cưỡng.
[4][4][4] Trong các tác giả bàn về văn hoá Việt Nam hiện đại, có Nguyễn Kiến Giang rất đáng chú ư. Ông vận dụng quan điểm biện chứng duy vật để nhận diện thực trạng văn hoá dân tộc hiện nay. Tác giả giới thuyết văn hoá hiện đại là từ Cách Mạng Tháng Tám 1945. Chúng tôi lại nghĩ rằng văn hoá hiện đại phải đưa lùi khởi điểm về tận Đông Kinh Nghiă Thục, với đủ tầm vóc ảnh hưởng sâu và rộng cuả nó đối với xă hội ta suốt thế kỉ XX. Chúng tôi hiểu ĐKNT là biểu tượng cuả phong trào duy tân vang dội khắp ba miền đất nước. Những thủ lĩnh cuả phong trào đă trở thành biểu tượng cuả một thế hệ canh tân đất nước về mọi mặt, trong đó văn hoá là điạ bàn chủ đạo.
            Khi điểm lại các thành phần văn hoá cuả dân tộc Việt Nam trong giai đoạn mà ông cho là khủng hoảng hiện nay, ông nhận ra ba thành phần: truyền thống, canh tân và phục hưng, hănh tiến. Thiết nghĩ rằng tác giả nh́n giai đoạn khủng hoảng quá ngắn hạn, và quy chiếu vào sự khủng hoảng cuả hệ văn hoá vô sản trong nước. Khủng hoảng sẽ trở nên sâu sắc hơn, nếu tác giả mở rộng ra để bao trùm các hệ tư tưởng nhị nguyên đang đấu tranh với nhau trên điạ bàn đất nước. Nhưng tất cả những luận điểm về khủng hoảng chỉ là do vị trí đứng cuả tác giả mà thôi. Chúng tôi th́ nghĩ là đó là một thời ḱ chuyển tiếp cần thiết để bước về phiá cái mới. Xem: Nguyễn Kiến Giang (1993), "Nh́n nhận thực trạng văn hoá Việt Nam hiện nay", trong Tuyển tập Nguyễn Kiến Giang. California: nxb. Trăm Hoa, tr. 145- 176.