Cộng Đồng Việt Nam tại Pháp 

Từ di trú-hội nhập đến tư cách công dân

(De l’immigration-intégration à la citoyenneté)

 

Gs  Lê Mộng Nguyên

(Paris)

 

Trong bài khảo cứu về VICTOR HUGO (Nghệ Thuật-Montréal số 106 th. 01-2003), tôi có trích câu bất hủ của nhà đại thi hào và chính khách Pháp bị đày ra khỏi nước v́ chống bạo quyền Louis-Napoléon Bonaparte là người chủ mưu cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 (coup d’État du 2 Décembre) với mục đích lật đổ chính thể Cộng ḥa : Quand la liberté rentrera, je rentrerai (Ngày nào tự do được hồi phục, ngày ấy tôi sẽ trở lại cố hương), để từ chối quyết định ân xá của Nă-Phá-Luân Đệ Tam. Tôi bồi hồi cảm động tưởng nhớ tới hơn hai triệu đồng bào rải rác khắp năm châu trên xứ người mà trong đó hơn hai trăm ngh́n người Việt Nam đă di cư và định cư tại Pháp... phần đông từ ngày 30 tháng tư năm 1975 (biến cố dân tộc). Nhưng thật ra, muốn hiểu tường tận vấn đề này dính dáng mật thiết đến tương lai đất nước, ta phải cần theo dơi diễn tiến lịch sử  và chính trị của di dân VN, truớc khi vạch lại hiện tượng định cư  (từ di trú-hội nhập cho đến tư cách công dân) của một số đồng bào chúng ta trên đất Pháp dưới khía cạnh xă hội học và văn hóa.

 

I. Diễn tiến lịch sử và chính trị của di trú việt nam tại Pháp

 

Nói một cách tổng quát và v́ lư do những dây thắt chặt trong quá khứ giữa đế quốc thuộc địa Pháp và các nước trong cựu Đông Pháp, nước Pháp là một  xứ sở rất tiện lợi cho di dân VN, Miên, Lào và Trung Hoa. Bởi v́ các dân chủng Thái Lan, Mă Lai, Ấn Độ Dương, Phi Luật Tân hoặc Tân Gia Ba phần lớn thích chọn các nước Mỹ  và Úc châu. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại rải rác trên 70 nước của địa cầu có thể  (theo Lâm Thanh Liêm và LM Jean Maĩs trong Le Médecin du Vietnam, số 35, tháng 5 & 6-1997) lên tới 2 300 000 người  mà trong đó hơn 300 000 người Việt Nam chính tông, sinh sống tại các nước lân cận Á Châu.

 

     Bắc Mỹ có nhiều dân Việt  định cư nhất : 1 150 000 trong đó 1 triệu người ở Hoa Kỳ và 150 000 ở Gia Nă Đại. Trong vùng Đại Dương Châu, đồng bào ta được tổng số 272 000 người phân chia khắp các nước Úc (160 000), Nouvelle Zélande (8 000) và  Nouvelle Calédonie (4 000). Trong các nước Tây Âu, tương đối ít người Việt (400 000 thôi). Nên nhớ rằng trước khi Tường Bá Linh  và chế độ Cộng Sản sụp đổ trong các nước thuộc về Trung và Đông Âu, chính phủ Hà Nội đă gửi  240 000 thanh niên lao động làm việc với mục đích củng cố tài sức công nhân và kỹ thuật của các quốc gia này  thuộc gia đ́nh chủ nghĩa xă hội trước cách mạng 1989-1991. Một số đông những thanh niên này đă từ chối không trở về VN , cho nên hiện nay có gần 100 000 muốn di chuyển qua Pháp quốc, lợi dụng cơ hội việc áp dụng hiệp định Schengen cho nhiều nươc trong Liên Hiệp Âu Châu (x. Lê Mộng Nguyên, ‘’L’espace Schengen et le droit d’asile des étrangers sur les territoires de la République Française ‘’,  ‘’L’Appel de la nation’’ số 24, ngày 20-01-1994).

 

     Tổng số người Việt tại Pháp được bao nhiêu ? Rất khó trả lời câu hỏi này v́ trên mặt thống kê chính thức, người ta chỉ nói một cách tổng quát về di dân Đông Dương chứ không kể riêng biệt các chủng tộc Lào, Miên hay Việt Nam. Hơn nữa, con số những người được vào quốc tịch Pháp bị xóa trên bản thống kê. Theo nhiều xă hội học gia (Lê Hữu Khóa, Les Vietnamiens en France, Insertion et Identité, L’Harmattan, Paris 1985 ;  Christophe Longwiny et Christian Jelen, La famille, secret de l’intégration, Robert Laffont 1993), người Việt  cư ngụ tại Pháp hiện giờ tính đến  200 000, trong lúc nhà kinh tế học Trần Văn Ṭng đưa ra một số rất lớn : 250 000.

 

     Ta có thể nói là trên mặt tiến triển lịch sử, trong một thời kỳ thứ nhất từ 1914-1918 tới 1954 và trong một đợt đầu, có 50 000 người Việt phần đông quê quán Bắc kỳ, đă được chiêu mộ  làm lính thợ (soldats-ouvriers) để tham gia vào sức gắng chiến tranh của ‘’Mẫu Quốc’’ , nhưng một khi hết chiến tranh, quyết định ở lại trên đất Pháp để làm việc trong công nghệ dệt (Lyon) hoặc kỹ nghệ xe hơi trong vùng ngoại ô Paris hoặc trong việc xây đắp đường tàu sắt ở miền Bắc nước Pháp. Đợt thứ hai (từ 1919 đến 1939) đặc biệt dành riêng cho khoảng 5 000 người trẻ tuổi muốn  rèn luyện trí thức với tŕnh độ đại học rất cao (tỉ dụ : Phan Châu Trinh, Nguyễn Mạnh Tường v.v.) và những người giữ một vai chính trị (như Hoàng đế Bảo Đại, khách uy thế của nước bảo hộ hơn là một kẻ di cư, Hồ Chí Minh, Nguyễn An Ninh là những nhà cách mạng chống Pháp trong tương lai). Hoàng Thái Tử và mấy năm sau trở thành Hoàng Đế Bảo Đại muốn học hỏi trong thời gian ông ở Pháp những nguyên tắc dân chủ chính thể với ư định thiết lập trong tương lai Việt Nam một chế độ quân chủ lập hiến. Trong lúc những người (thuộc về gia đ́nh trưởng giả đại điền chủ  Nam kỳ hoặc nho giáo An Nam và Bắc kỳ) được xuất ngoại qua Pháp huấn luyện với tŕnh độ Đại học vào những năm 1926-1927 (khoảng chừng 200) rất tỏ ḷng khâm phục nước Pháp của Thế Kỷ Ánh Sáng và tôn trọng Nhân Quyền. Những nhà trí thức này (trong thời gian du học trên đất khách) sẽ thấm nhuần tư tưởng quảng đại về tự do và quyền tự quyết tự chủ của các dân tộc trên hoàn cầu. Đợt thứ ba của phong trào di cư bắt đầu với thế chiến thứ hai (1939), là lúc chính phủ thuộc địa Đông Dương tống đạt qua ‘’Mẫu Quốc’’  chừng 20 000 người Việt (phần đông quê quán Bắc kỳ) đặng làm việc với tư cách nhân công bản quốc (main-d’oeuvre indigène) và 8 000 khác làm tán binh (tirailleurs). Ông Lê Hữu Tho, tác giả sách tự truyện ‘’Itinéraire d’un petit mandarin’’ (Cuộc hành tŕnh của một ông quan bé, L’Harmattan 1997), sinh năm 1919 tại Bắc kỳ và con nhà quan, đă làm sống lại ít nhiều hoàn cảnh của thời ấy (tôi xin trích tr. 4 của b́a) giới thiệu ‘’... người trai trẻ nước Đông dương lúc 19 tuổi quyết định giă từ Việt Nam để qua Pháp. Nhưng khi vừa đặt chân trên đất người, th́ chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ làm đảo lộn số phận của anh. Biến cố này sẽ bó buộc anh phải chung sống với 20 000 đồng bào, phần lớn thuộc gốc nhà quê, để làm thông ngôn. Kư sự này là một bằng chừng mới lạ về thân phận của những người nhà quê VN, phải bỏ làng bỏ nước, nay chứng kiến một Pháp quốc bị chiếm lănh và mất thể diện. Tự truyện này cũng là một tán dương ca đầy hy vọng qua ư lực quyết thắng mạnh mẽ của Tho và cũng qua sự thương mến nước Pháp do cô gái Madeleine làm tiêu biểu ; năng lực và ái t́nh đă cho người thanh niên VN được thấm nhập dễ dàng vào xă hội Pháp.’’

 

     Sau thời Pháp quốc bị Đức Quốc Xă (phát xít) chiếm đóng (chỉ vài tháng thôi sau khi những người Việt này đặt chân trên đất khách và sau khi Thỏa Hiệp Đ́nh Chiến được kư,  4 500 được trở về cố quận, chỉ c̣n  13 000 ‘’lính-thợ’’ ở lại Pháp sau kết thúc thế chiến thứ hai. Một phần lớn được trở về quê quán ngay từ năm 1946 và phong trào này tiếp tục cho đến năm 1951, là năm mà người ta đếm chỉ có vỏn vẹn 3 000 người Việt tại Pháp.

      Theo thống kê của Sở An Ninh Đông Pháp vào tháng 7 năm 1945, người VN ở lại Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến, lên tới 27 350. Một khi những ‘’lính-thợ’’ đă trở về nước, số này c̣n lại khoảng 15 000 đầu năm 1950, trong đó có nhiều sinh viên (sinh trưởng gia đ́nh giàu có) được phép xuất ngoại (tự túc tài chánh) trong thời gian Chiến Cuộc Việt Nam thứ nhất (1945-1954), để tránh khỏi tổng động viên do chính phủ ban hành. Họ trở về quê hương sau khi đậu bằng cấp Đại học Pháp. Một số ở lại, xin nhập quốc tịch Pháp và từ đó không c̣n tên trên thống kê biểu chính thức của Bộ Nội Vụ Pháp (v́ vậy, tổng số người Việt ở Pháp năm 1962 chỉ có 6 853).

    

    Trong thời kỳ thứ hai từ 1954 đến 1975, nghĩa là từ chiến tranh VN thứ hai (giữa miền Bắc cộng sản và Việt Nam Cộng Ḥa miền Nam liên kết với Hoa Kỳ (Liên Bang Mỹ Quốc), mặc dầu t́nh trạng quốc tế tranh nghị, nước Pháp chấp nhận sự có mặt của sinh viên học bổng của VNCH hay của chính phủ Pháp  và ngay cả những sinh viên không  học bổng tự chi phí xuất dương, nhất là sau cuộc tiến công cộng sản nhân dịp Tết Mậu Thân (1968). Nếu năm 1962, có 6 853 người Việt (như đă nói trên), năm 1975 (trước Sài G̣n thất thủ), đồng bào chúng ta trú ngụ tại Pháp lên đến 14 196, theo Bộ Nội Vụ.

 

     Thời kỳ thứ ba (mà cũng là thời kỳ cuối) bắt đầu ngày  30 tháng 4 năm 1975 (thất thủ Sài G̣n), mà cũng là thời kỳ trong đó Pháp quốc đă đón nhận hơn 200 000 dân di cư phần lớn từ những nước miền Đông Nam Á. Phần chủ yếu trong tổng số này gồm những tị nạn rời bỏ các nước Miên, Lào và Việt Nam sau khi Cộng sản đặt quyền lực thống trị trong ba nước thuộc cựu Đông Pháp. Nói riêng về đồng bào chúng ta : và theo bản thống kê của ‘’France-Terre d’asile’’ (Nước Pháp-Đất Nương Náu của Người Tị Nạn) : giữa 1975 và 1990 có đến 43 000 người Việt tị nạn (một phần ba của tổng số chung) phân phối trong thời gian qua nhiều giai đoạn : 7 600 giữa 1975 và 1977 ; 14 700 giữa 1978 và 1980 ; 23 000 người Việt di cư từ VN (trong đó có lẽ 20 700 được có tư cách tị nạn) giữa 1981 và 1990. Kể từ ngày Sài G̣n thất thủ cho đến năm 1983, phần lớn những người tị nạn này là những cựu thuyền nhân (boat people). Ngoài ra, những chuyến đi thực hiện theo ‘’Chương Tŕnh Tổ Chức Xuất Hành’’ (ODP) được chính phủ Hà Nội chấp thuận (từ tháng 7-1978 đến cuối năm 1980 và từ 1980 việc xuất ngoại được thực hành theo chính sách đoàn tụ gia đ́nh do chính phủ Pháp đề cao.

     Từ 1991 đến 1994 : chỉ có 3 300 người Việt trên 3 700 tị nạn Đông Dương tại Pháp. Lư do ? Những chính sách hạn chế do cuộc thương nghị tại Genève 1989 quyết định với mục đích lựa chọn kỹ càng những kẻ đạt tới những trại tị nạn đặng biết  họ có thật hay không là ‘’những người tị nạn chính xác’’. V́ thế cho nên chỉ 8 phần 100 những người thỉnh cầu mà thôi mới được công nhận được tư cách tị nạn. Hiện giờ (chúng ta đă nói trên), tổng số đồng bào di cư và định cư tại Pháp vào khoảng 200 000  mà trong đó 45 000 tại vùng ngoại ô lân cận thủ đô và 18 000 ngay trong nội thành Paris (tôi không gồm trong thống kê này những đồng bào đă được vào quốc tịch Pháp và Việt lai - Âu Á : Eurasiens). Nhưng vấn đề hội nhập xă hội Pháp có dính líu đến tất cả những người Việt di cư rồi định cư tại nước này và những người Việt có quốc tịch Pháp (Pháp gốc Việt) hiện sống trên đất người.

 

II .  Phương diện xă hội học và văn hóa của di trú việt nam tại phảp

         (Từ hội nhập đến tư cách công dân)

     Trong cuộc thảo luận tiếp theo thuyết tŕnh tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp (số 15, đường La Pérouse, Paris Quận 16) về ‘’Les naufragés de la liberté’’ (Những Kẻ Trầm Luân của Tự Do), diễn giả Michel Tauriac trả lời như sau về một câu hỏi đến vấn đề đồng bào định cư muốn hội nhập (intégration) xă hội Pháp : Sự hội nhập xă hội của di cư định cư Việt Nam trên đất Pháp là một thành công lớn. Đôi khi ta có thể  nói là có sự đồng hóa (assimilation), và như ông Tổng trưởng đă nhấn mạnh trước đây, sự thật là người Việt bị cấu xé giữa hai nền văn hóa. Họ có một chân trong mỗi nền văn hóa. Dầu sao họ cũng cảm thấy sung sướng trên đất Pháp. Trong tôi cũng có một phần người Việt Nam như quí vị đă biết. Người Việt không ở  trên đất Pháp như mọi người khác ở đất xa lạ, như mọi người khác ở Hoa Kỳ, hay Úc, vân vân. Pháp quốc, đối với họ, là một chút như  sự tiếp nối của quê hương xa xăm, dưới một h́nh thức khác. Sự  hội nhập này đă thành công mặc dầu cái sợ, cái lo âu của họ có thể bị mất  gốc rễ và sự lo ngại thấy con cái  ngày mai sẽ thoát khỏi gia đ́nh. Đó là một chuyện rất thường bởi v́ con cái sẽ tự lấy tự do,  con cái họ được sinh ở Pháp, chúng lập gia đ́nh đôi khi với người Pháp, dù muốn dù không, bởi v́ những kết hôn cha mẹ định trước vẫn c̣n, ở đây cũng như ở Việt Nam... (x. Mondes et Cultures, Comptes Rendus Trimestriels des Séances de l’Académie des Sciences d’Outre-Mer, Tome LIX - 3 - 4 - 1999, Tome - 1 - 2000, p. 300).

     Ông bạn đồng liêu của tôi ở Viện Hàn Lâm rất chính xác khi ông nói đến sự thành công của người Việt trong sinh sống ḥa hợp với xă hội Pháp. V́ thế cho nên trong cuộc Thăm Ḍ Dư Luận từ 12 tới 15 tháng 6-2001 (do Bộ trưởng phụ trách Thành Thị thuê hăng IFOP thực hiện) của những thanh thiếu niên (từ một mẫu đo lường gồm 522 người) sinh tại Pháp và có cha mẹ người thuộc nước Algérie, Tunisie và Maroc hoặc Phi Châu với kết quả là chữ ‘’hội nhập’’ (intégration) được điểm rất nhỏ : 5,9 trên 10, không có điều tra về thanh thiếu niên Việt. V́ chuyện đồng bào chúng ta (thế hệ thứ hai) ḥa hợp với xă hội Pháp là một chuyện tự nhiên ! Trong thực tế, ta nên lấy một thái độ dè dặt hơn...

     Muốn hiểu rơ sự thật, trước hết ta phải lấy hết sức định nghĩa chữ ‘’hội nhập xă hội Pháp’’ một cách sáng suốt, nhưng chuyện đó không phải là dễ. Theo Hội Đồng Tối Cao về Hội Nhập (Haut Conseil à l’Intégration) : Việc hội nhập (intégration) có thể nói là một đường lối  trung b́nh giữa sự đồng hóa (assimilation) và sự xen tháp (insertion). Như thế có nghĩa là trong hội nhập, ta phải làm thế nào để những thành phần muôn mặt và khác nhau phải gia nhập tích cực vào cuộc xây dựng xă hội nước Pháp, nhưng cùng một lúc ta phải thừa nhận tất cả sinh hoạt của những đặc tính văn hóa, xă hội và luân lư và công nhận là một lẽ dĩ nhiên rằng toàn thể (xă hội Pháp) được phong phú thêm nhờ những biến hóa, những tính t́nh phức tạp ấy. Câu hỏi quan trọng phải nêu lên : Đồng bào ta có cần phải dứt khoát với gốc rễ quê hương để hội nhập xă hội nước người ? Như André Frossard đă viết : ‘’Câu trả lời rất đúng cho một câu hỏi rất đúng là một câu hỏi khác, và một vấn đề được giải quyết là một vấn đề đặt lên một cách sai lầm : điểm cuối của bất cứ bài diễn văn nào đáng chú ư là một chấm hỏi’’...  Như vậy, câu trả lời khôn khéo  cho câu hỏi này sẽ là một câu hỏi khác : Sự hội nhập của những kẻ tha hương nói chung và của người Việt nói riêng vào xă hội Pháp có cần đi đến sự công dân hóa bằng cách xin nhập quốc tịch Pháp ? Trong một bài xă thuyết đăng trong ‘’Le Viêt-Nam au Présent’’, tr. 194-207, th. 10-1992, nhà xă hội học Lê Hữu Khóa  trích nhà văn Dương Thu Hương đă viết trong một tự bạch : ‘’Dân tộc ta đă chết hàng triệu lần trong cái chết’’, đă cho vài lời chú giải như sau : ‘’Theo Dương Thu Hương, dân tộc Việt Nam biết rằng thà chết c̣n hơn sống. Và ngày nay, để học lại cách sống, họ phải học cách trọng lẽ phải và sự công bằng’’... và tiếp tục : Với hai chữ Sự Thật , Công Bằng, phải thêm hai chữ khác nữa để dành đặc biệt cho cộng đồng người Việt : Trung Tín và Khoan Dung. Lê Hữu Khóa nhấn mạnh vào chữ TRUNG TÍN (Loyauté) bởi v́ chúng ta, người Việt Nam, chúng ta phải trung tín với nước Pháp đă chiêu đăi,  đă cho chúng ta một cơ hội may mắn để làm lại cuộc đời, trong khung cảnh một Quốc Gia kính trọng pháp quyền và tự do cá nhân. Nhà xă hội học kể lại chuyện ông Tố Hữu, Phó Thủ Tướng và phụ trách văn pḥng Thư kư Đảng Cộng sản , đă nói một cách trắng trợn, trong cuộc đàm luận về vấn đề cộng đồng VN nhập quốc tịch Pháp : (xin trích) ‘’Chữ ‘’passeport’’ dịch ra tiếng Việt bằng Hộ Chiếu. Nếu chúng ta chỉ giữ lại chữ cuối cùng ‘’chiếu’’, chữ này có nghĩa là ‘’tấm chiếu’’, mà người ta có thể trải ra, cuốn lại, giữ ǵn hoặc vứt bỏ’’. Tố Hữu muốn nói - từ cái tỉ dụ này - rằng một khi người định cư được nhập quốc tịch của nước chiêu đăi, việc này chỉ tóm lại thành một tờ giấy. Đâu có ǵ quan trọng nếu sau này họ muốn thay đổi  hay từ bỏ quốc tịch ? Và nhà xă hội học Pháp gốc Việt  nổi giận : ‘’Chúng ta không chấp nhận cái thái độ gian lận này, chúng ta có bổn phận đối với quốc gia đă nồng hậu đón tiếp chúng ta, đă cho chúng ta đủ mọi cách để làm lại một cuộc đời mới. Chúng ta phải hănh diện được nhập quốc tịch Pháp cũng như chúng ta hănh diện là những công dân Việt Nam’’.

     Cùng theo một quan niệm và nhân dịp nói đến Pháp quốc là một nước đă nồng nhiệt tiếp đón (tôi đă nhấn mạnh chuyện này tại Viện Hàn Lâm  trong buổi họp ngày 03-03-2000) hàng ngàn ‘’những kẻ trầm luân v́ tự do’’,  tôi xin nhắc lại rằng lúc bấy giờ, trong những năm 1976 và kế tiếp, duới thời các chính phủ Jacques Chirac và Raymond Barre, những kẻ tị nạn VN tại Pháp (sau khi Sài G̣n thất thủ) đă được chính quyền Pháp nâng đỡ tận cùng. Tôi c̣n nhớ hồi ấy, Tổng Thống Giscard d’Estaing đă ra chỉ thị cho công chức Hành Chánh phải làm cho thuận tiện (dễ dàng), đơn giản và mau chóng thủ tục gia nhập quốc tịch Pháp cho người tị nạn. Sau khi Bắc Việt thôn tính Nam Việt vào tháng tư 1975 và kế theo là thảm kịch của những người vượt biển (đi t́m tự do), đồng bào chúng ta có thể được quốc tịch Pháp trong một thời gian ngắn : 6 tháng, 9 tháng hoạc lâu nhất là một năm. Tôi đă giúp đỡ nhiều đồng bào trong việc làm thủ tục giấy tờ... và nhân dịp này muốn nói lên ḷng biết ơn của người VN đối với chính quyền Pháp.

     Sự hội nhập xă hội nước người của đồng bào VN là một thành công, bởi v́  những kẻ cựu tị nạn đặt chân trên đất  Pháp vào những năm giữa 1954 và 1975, toàn là sinh viên, trí thức hay làm thương mại, đă không ngần ngại sấn vào những địa hạt chuyên môn và khoa học, cũng như những ngành y khoa - dược khoa, và yêu chuộng học thức trước tất cả, thế hệ này qua thế hệ khác. Trả lời một câu hỏi của tôi trong buổi đàm luận tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại chiều ngày 03-03-2000 về tổng số người Việt tại Pháp, nhà văn và kư giả Michel Tauriac cho biết : ‘’... Tôi có thể nói : vào khoảng 1 triệu người. Tại sao ? Hăy mở  Minitel và t́m kiếm họ ‘’Nguyễn’’ - xem như một thứ ‘’Dupont’’ của Việt Nam - th́ quí vị sẽ thấy họ này  khắp mọi nơi ở Pháp, trong tất cả những thành thị, trong tất cả những quận huyện. Quí vị sẽ biết tại Pháp có chừng 4 000 bác sĩ y khoa Việt Nam và hơn 2 000 xỉ khoa y sĩ và dược sĩ, nhưng đối với dân Pháp, tất cả người Việt  là người Tàu và tất cả đều là chủ cao lâu... ‘’ Sử học gia Philippe Devillers hiện diện hôm ấy có thêm vào danh sách này những chuyên nghiệp điện tử, hoặc trong ngành ‘’informatique’’ (có nhiều người Việt rất tài giỏi) và các nhà khảo cứu khoa học lừng danh... Tôi tin chắc là nhờ giáo lư của Khổng tử, hơn là Phật giáo và Đạo giáo,  những cựu tị nạn nay định cư tại Pháp đă theo đuổi học hỏi và rèn luyện trí thức đến tận cùng... Phần đông đă thành công (nhất là trên mặt kinh tế) và đó là một cách trả ơn xứng đáng của người Việt cho Pháp quốc đă đón tiếp nồng hậu những kẻ ‘’trầm luân của tự do’’. Hơn nữa, tinh thần hỗ trợ gia đ́nh đă thoa dịu những vết thương của đồng bào trú ngụ tại Pháp bị thất nghiệp trong những năm 1980. Thành thử, mặc dầu đời sống khó khăn, trong cộng đồng Việt Nam tại Pháp, không có người nào bị thân thuộc ruồng bỏ phải sống sót bên lề đường... Trong những giai đoạn khủng hoảng, tất cả thị tộc thiết lập lại dưới mái nhà cùng ḍng họ : thanh niên Việt thất nghiệp được cho ở trong nhà của cha mẹ, đến lượt cha mẹ già được sống êm dịu những ngày hưu trí  trong nhà con cái, cháu chắt chứ không phải nương náu cô quạnh trong nhà dưỡng lăo. Sự phụng thờ tổ tiên trên đất khách luôn đi đôi  với sự tôn kính và biết ơn người lớn tuổi. Trong giao dịch, nếu (đôi lúc) có sự chống đối giữa những người định cư thuộc thế hệ thứ nhất thấm nhuần Nho giáo và những thanh thiếu niên thuộc thế hệ thứ hai (sinh tại Pháp) tôn trọng nhân quyền và thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân Âu Tây, sự tương phản về tư tưởng này không bao giờ đưa đến  đoạn tuyệt. Bởi v́ các bô lăo Việt Nam cũng không quên bài học ‘’Trung Dung’’ của Đạo Khổng, cho nên không phản đối trước thái độ rất tự do cá nhân của những người trẻ tuổi thuộc thế hệ thứ hai.

      Đồng bào chúng ta có cần phải cắt đứt với nguồn gốc quê hương để hoàn toàn hội nhập xă hội nuớc người ? Tôi không trả lời được  cho câu hỏi này (như đă nói trên). Nhưng để tưởng nhớ tới ngh́n vạn người vượt biển đă bỏ ḿnh cho Tự Do, tôi xin trích mấy ḍng sau này của Siegfried, với mục đích dâng tặng đồng bào định cư khắp năm châu : ‘’Le premier immigré demeure, sa vie durant, un homme de son pays d’origine’’.