Tuổi trẻ việt nam ở hải ngoại: hội nhập và tiếp thu

 

T.S. Phan Văn Song

 

Sau biến cố 30 tháng 4 1975, lần đầu tiên trong lịch sử Việt nam cận đại,  dư luận thế giới  mới ghi nhận một cuộc di cư vĩ đại của công dân một quốc gia như vậy. Trên 2 triệu người Việt nam  sống sót sau những cuộc hành tŕnh đầy gian nan và nguy hiểm ( một thống kê không chánh thức đă cho một con số là cứ 4 người vượt biên là có 1 người chết hoặc mất tích nơi biển cả) để trốn khỏi quê hương của họ đang biến thành một căn nhà tù khổng lồ, đang sống và sanh hoạt trên gằn 70 nước trên toàn thế giới!  Bắc Mỹ có nh́ều người Việt định cư nhứt: trên 1 triệu ở Hoa kỳ và 150 000 ở Gia Nă Đại, trong vùng Châu Đại Dương: Úc chứa 160 000 người tỵ nạn, Tân Tây Lan  8 000 và Nouvelle Calédonie thuộc Pháp 4 000. Trong các nước Tây Âu tương đối ít người Việt hơn, chỉ vào khoảng 400 000 thôi. Sau khi bức tường Bá linh và các nước chế độ  cộng sản Trung và Đông Âu sụp đổ, khoảng 100 000 người thuộc thành phần thanh niên xuất cảng lao đông cũng  từ chối không trở về Việt nam và xin ở lại tỵ nạn chánh trị.

 

Trong bài viết nầy chúng tôi không xét tới vấn đề những con số, chúng tôi chỉ đặt  vấn đề sanh hoạt, sanh tồn của 2 triệu đồng bào ấy trên những quê hương mới của họ. Sanh hoạt, sanh tồn sau khi đă ổn định nơi ăn chốn ở. Gần 30 năm rồi, đă đến lúc chúng ta, những người Việt, chúng  ta tự hỏi chúng ta và thế hệ con cháu chúng ta có và nên  hội nhập vào  xă hội những quốc gia nơi chúng ta đang trú ngụ hay không? nhưng hội nhập là ǵ? Vào những sanh hoạt kinh tế? Vào xă hội?  Hay hội nhập vào  những luồng tư tưởng, những trường phái nghệ thuật,  tư duy?   Đă có những thế hệ thứ hai sanh quán trên hải ngoại rồi, cha mẹ những đúa bé ấy ( sanh  tại Việt nam nhưng trưởng thành và được giáo dục tại hải ngoại) tuy c̣n nói được tiếng Việt như không c̣n suy nghĩ bằng việt ngữ nữa, v́ họ đă được giáo dục bằng tiếng bản xứ, sanh hoạt bằng tiếng bản xứ, việt ngữ chỉ c̣n là một tiếng nói ngoại giao với những người đồng quê hương với họ, hay đồng quê hương với cha mẹ họ ( để kiểm chứng, mỗi khi chúng ta cần phải tính nhẩm, nếu chúng ta c̣n đếm bằng tiếng việt là chúng ta c̣n suy nghĩ bằng tiếng việt).  Tuổi trẻ người Việt ở hải ngoại hiện nay gồm rất nhiều người sanh, trưởng thành và hấp thụ giáo dục trên quê hương thứ hai của cha mẹ họ. Họ có sắc diện Á dông, mầu da nhưng trên vóc dáng nhờ được nuôi dưởng với những tập quán âu mỹ họ  có những vóc dáng của những người âu mỹ. Từ tướng đi, cách hành động xữ sự họ cũng thoải mái phóng túng hơn những người Việt thế hệ sanh tại Việt nam, lớn lên tại Việt nam hay từng làm việc tại Việt nam. Khi các em ấy yêu nhau, tiếng nói con tim của các em sẽ là tiếng các em ấy xữ dụng hằng ngày.Thế hệ chúng ta là thế hệ của những người di dân, c̣n thế hệ con cháu chúng ta không c̣n gọi là những người di dân nữa, các em là công dân của quốc gia bản xứ. Vấn đề hội nhập là chuyện của chúng ta không phải chuyện của các em nữa. Chúng ta phải mạnh dạn mà nh́n nhận như vậy. Có như vậy chúng ta mới thoát khỏi cái ṿng lẩn quẩn, quê hương Việt nam, về hay không về,  xây dựng đất nước vân vân..  đối với con em chúng ta. Nhưng,..

 

Thế nào là hội nhập: Thước đo nào để đo ? thành công trong địa hạt thương mại ư ? : có cơ ngơ ư? Có nhà?  có xe?  có tiền ? , con cái có nghề nghiệp?  Trong một bài viết của Giáo sư Lê Mộng Nguyên, ông ta tạm định nghĩa " .... là một đường lối  giữa sự đồng hóa ( assimilation) và sự xen tháp ( insertion). Như thế có nghĩa là trong hội nhập, ta phả làm thế nào để những thành phần muôn mặt  và khác nhau phải gia nhập tích cực vào cuộc xây dựng  xă hội ( nước Pháp) nhưng cùng một lúc ta phải thừa nhận tất cả sanh hoạt của những đặc tánh văn hoá, xă hội và luân lư và công nhận là một lẽ dĩ nhiên rằng toàn thể ( xă hội Pháp) được phong phú thêm nhờ những biến hóa phức tạp ấy. " (1). Nói tóm lại  đồng bào ta cần có phải dứt khoát với gốc rễ quê hương để hội nhập xă hội nước người? có cần phải nhập tịch nứơc người để làm công dân nước người hay không?

 

Nếu chúng ta ṭ ṃ thử so sánh những thành công của những người gốc Việt nam và những người gốc ngoại quốc khác, chúng ta không có một dử kiện nào để chứng minh đồng bào ta thành công hơn đồng bào các dân tộc khác. Về lănh vực kinh tế, cộng đồng chúng ta khá thành công. Rất khá nhiều bác sĩ dược sĩ, kỹ sư ngành điện toán, phần lớn đặc biệt ở Pháp, các vị ấy thuộc thế hệ du học sanh từ những năm 1954 đến 1975.  Du học, dĩ nhiên có bằng cấp cao, nghề nghiệp, hội nhập, xen tháp là những chuyện b́nh thường không nên nêu đến, vă lại trên lănh vực thống kê, họ là những người Pháp nên không c̣n ở bản thống kê là ngoại quốc nữa. Ở Mỹ sanh hoạt tổ chức xă hội có h́nh thức cộng đồng hơn ( communautaire) Những sắc dân di dân sống chung với nhau, tổ chức thành những xóm những khu vực với nhau: khu Tàu, khu Việt, thậm chí thành phố Tàu thành phố Việt ( chinatown, Little Saigon..) Sanh hoạt ở những khu vực nầy hoàn toàn á đông, thậm chí nhiều người á đông hầu như không xữ dụng  tiếng Mỹ trong suốt khoảng thời gian họ cư ngụ tại nước Mỹ. Đối với hiện tượng ấy chúng ta có thể nói đến hội nhập không? hay chỉ là một hiện tượng xen tháp sanh tồn, t́m mănh đất sống để cắm dùi an cư lập nghiệp. Hiên tượng ấy không riêng ǵ cho người Việt chúng ta đâu, đă có những   Little Italy, những Little Odessa, quartier juif ( rue des Rosiers, Paris, Pháp)

 

Trở về với đề tài là tuổi trẻ việt nam vói hội nhập  và tiếp thu. Như chúng ta đă cùng nhau nhận xét, chúng ta không lo lắng cho vấn đề xen tháp ( insertion) hay vấn đề hội nhập, bản năng sanh tồn của dân tộc việt khá mạnh và vượt trên mọi thử thách. Chúng ta hăy bàn đến vấn đề tiếp thu, tiếp thu hai mặt văn hóa, con em chúng ta đùng giữa hai luồng tư tưởng, hai luồng giao lưu luân lư Âu châu với luân lư T́nh thương của Thiên Chúa giáo ( biết trọng con người, biết ghi nhận ư kiến cá thể, trọng nhân quyền nơi người khác để phát huy nhân quyền cá nhơn) Á châu  với giáo lư Tam giáo Phật Lăo Khổng (tổ chức xă hội gia đ́nh, quân sư phụ, đặt trên hết chữ sĩ để thúc đẩy con em rèn luyện trí thức đến tận cùng...biết trọng người lớn tuổi, biết công ơn cha mẹ, nhớ công ơn tổ tiên, ông bà, cộng đồng ..)

 

Đó là một hội tụ ( convergence) giữa triết lư Âm Dương cơ sở văn hóa việt nam và triết lư Vật Tâm cơ sở lư luận tây phương.  Như Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần nhận xét ".. khi quan sát sóng nước, người ta sẽ nhận thấy hiện tượng Âm Dương rất rơ: sóng nổi cao lên là Dương sóng hạ xuống là Âm. Nhô lên là dương, lỏm xuống là âm. Văy âm dương chỉ là hai quá tŕnh vận động của một bản thể là nước;  nó đi từ âm qua dương rồi từ dương trở về âm mà cũng chỉ một thứ nước đó thôi. Khác hẳn với Vật Tâm. Bôi cái ǵ là Vật không phải là Tâm và ngược lại. Mà "không phải" th́ thường đưa đến triệt hạ lẫn nhau. Đấu tranh giai cấp là trường hợp điển h́nh." (2). Tôi muốn bàn thêm với anh Trần là lư luận Vật Tâm cần có Vật và cần có Tâm. Thân thể con người là Vật nhưng phải có sức sống, lư luận và suy nghĩ là Tâm. V́ vậy chủ thuyết Duy Vật đơn thuần không đứng vững v́ có thiếu cơ sở Duy Tâm. Cái thất bại ngày nay của lư thuyết cộng sản và biện chứng Duy Vật đơn thuần là ở chổ ấy. Vật Tâm tuy là đôi, đối chọi đấy, tương phản đăy, nhưng muốn có tương phản phâi có đôi có cặp. Khi đău tranh giai cấp là xóa bỏ, giết sạch một giai cấp, th́ giai cấp c̣n lại  cũng phải tự chia đôi để cuộc đău tranh tiếp diển. Con người của các em trẻ việt nam ở hải ngoại cũng vậy, sống trong một xă hội lấy sự tương phản làm lư luận, lấy cái có, sở hữu ( avoir, to have, ) làm cứu cánh sanh tồn, ấy là phần Vật các em cần phải giử lại phần á đông nơi các em để các em tiến đến phần  là, phần hiện thực ( être, to be), đó là phần Tâm. Bổn phận của chúng ta ngày nay không phải lo lắng con em chúng ta có hội nhập hay không vào xă hội Âu Mỹ. Chúng ta phải cố gắng truyền đạt cho các em những vốn liếng của cha ông chúng ta để lại, bâo vệ cái phân á đông trong con người của con em chúng ta, bảo vệ là nghiên cứu để bâo tồn, để tăng triển, để làm giàu thêm cho tiếng nói, cho tư tưởng,  và quan trọng hơn ,  cố gắng không để mai một bởi những từ ngữ Việt nam "mới" hiện được xữ dụng ở tại trong nước. Đó là về mặt tinh thần văn hóa, có yêu văn hóa Việt nam lúc ấy con em ta mới yêu Việt nam. Cái lẩn quẩn về hay không về là những suy nghĩ cá nhơn,  thuộc thế hệ chúng ta,  " ta về ta tắm ao ta..", lư thuyết th́ đẹp lắm, đăy là giấc mơ của thế hệ những chúng ta, bỏ nhà bỏ của, bỏ vườn, bỏ những kỷ niệm ra đi, chứ c̣n đối với con em chúng kỷ niệm thơ ấu của các em là cái "square" ở đầu đường, cái con búp bê, con gấu đầu ấp tay gối, cái computer đầu tiên, chiếc xe đạp đầu tiên.. Con đường làng thơ mộng của chúng ta chỉ là một con đường đất lồi lỏm đầy ruồi nhặng, với những băi  thăi của trâu ḅ, con sông Hương thơ mộng của tuổi trẻ của tôi mà tôi thường lội tắm mỗi khi tôi về thăm Huế;  ngày nay nếu tôi về thăm lại Huế, nếu  con tôi muốn xuống sông Hương tắm,  tôi sẽ cấm hấn tắm, v́ tôi sợ hán sẽ bị ngă nước hay đau bụng đi chảy v́ lỡ uống nhằm nước. Đừng buộc con cái chúng ta yêu Việt nam, về giúp nước Việt nam một cách đơn thuần Tự hỏi  ḿnh  xem thử Việt nam có cần thật sự chúng ta không? Hăy giúp Việt nam như chúng ta giúp một nước chậm tiến khác, với một tinh thần bao dung nhưng phải khắc khe không khoan dung t́nh cảm. Các con em ta và cả chúng ta nữa, nếu muốn  giúp một Việt nam để xây dựng lại tương lai xán lạn hơn, giàu mạnh hơn, phải đến với Việt nam với một tinh thần trách nhiệm, phải  đ̣i hỏi ở người Việt nam một sự nghiêm chỉnh, một sự tự trọng trong trao đổi, không được "cầu xin" ǵ cả.

 

Nói tóm lại , con em ta khi hội nhập vào xă hội tây phương đă tiếp thu được cái bản chất cá thể toàn diện, bản chất cá thể ấy giúp cá nhơn ấy nắm rơ trách nhiệm, Làm sai, là lỗi tại nó, không đổ lỗi cho ai cả, sống ở xă hội tây phương con em ta có cái nh́n chánh trị xă hội, phân tích, chia sẻ,  dấn thân, đối thoại, đối lập dấn chủ, lần lượt tới phiên ḿnh, không giành giựt cướp chánh quyền, lật đổ. C̣n con người dông phương tiếp thu được ở chúng là cái nh́n "trung dung", nhẵn nhục, nhịn nhục, "mười điều bỏ chín làm lành". Nắm được cái thuyết âm dương, hết thịnh lại suy, hết suy lại thịnh, " hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai ", biết nhẫn nhục chờ tới phiên ḿnh.   Tính cộng đồng, đạo ông bà giúp cho cậu thanh niên cô thiếu nữ Việt nam dấn thân vào xă hội, vào cộng đồng. Xă hội tương lai là một xă hội siêu quốc gia, cộng đồng tương lai sẽ là một cộng đồng siêu quốc gia, hoàn cầu hóa; Xă hội của tập đoàn người Việt hải ngoại sẽ là một tập thể người Việt hoàn cầu, những cậu những cô gốc Việt nam sống răi rác khắp năm châu, với những cá thể đăc thù sanh hoạt, sanh tồn do địa lư văn hóa, luật lệ khác nhau nhưng nhờ bản thể Việt nam và văn hiến Việt nam vẫn làm gốc nên vẫn  hài ḥa bảo vệ được con người và đức tánh Việt nam. Hài ḥa, ḥa hợp, dung ḥa giữa cái âu cái á, lấy cái thuyết Vật Tâm làm lư luận suy nghĩ sanh tồn, lấy cái triết lư Âm Dương làm triết lư cuộc sống, tuổi trẻ Việt nam hải ngoại trong đầu thế kỷ thư XXI nầy sẽ có đầy đủ vốn liếng để góp mặt vào cuộc cách mạng kỷ nghệ tin học.

 

Đó cũng là sự hảnh diện của thế hệ chúng ta, thế hệ của những người bỏ vườn bỏ của, bỏ nhà ra đi, v́ đă thua một trận chiến. Trận chiến của những người đă một lần cố gắng thử  xây dựng một mẫu  xă hội bằng cách dung ḥa cái vốn liếng á châu tam giáo trung dung, với cái luân lư T́nh thương của Thiên Chúa, cái Tín Nghĩa của kẻ sĩ với cái honnête homme của một gentilhomme (gentleman) để đối  chọi với cái mẫu  xă hội xây dựng bởi  cái chủ thuyết Tam vô, duy vật tàn bạo . Ngày nay, nơi quê người khó khăn,  chúng ta đă và sẽ đang đào tạo những con em chúng ta đang tiếp tục làm công việc đó.  Cám ơn tất cả những anh em chúng ta ngày hôm nay đang làm công việc đó. Có những lúc khó khăn, sóng gió gay cấn, có những lúc b́nh thản như con gió mùa thu, nhưng âu đăy cũng chỉ là hiện tượng của những hành động âm dương trong quá tŕnh phát triển đó thôi ! Chủ nghĩa Cộng sản chủ thuyết duy vật đặt nền tảng trên vật chất đặng lư luận, dùng tương phản giai cấp để đău tranh. Giai cấp nền tảng là nhân dân, giai cấp cầm quyền nếu lúc xưa là giai cấp nhân dân, th́ ngày nay, v́ cầm quyền đă rời xa nhân dân rồi, sớm muộn ǵ họ cũng sẽ bị lật đổ, đó là quy luật do Duy Vật biện chứng chứng minh. Chỉ c̣n lại con người Việt muôn thưở, với triết lư âm dương trong văn hóa, với tính chất cộng đồng trong sanh hoạt, tính dân chủ trong nếp sống (3), và ngày nay con người Việt muôn thưở ấy được hội nhập vào làng "thế giới" với những cái tiếp thu qua những văn minh kỹ thuật âu mỹ, luân lư T́nh thương của Thiên Chúa giáo và lư luận Vật Tâm. Lư luận Vật Tâm  tuy dùng  tương phản, đối lập, nhưng nếu biết  dung ḥa sẽ  hổ trợ cho con người ấy trong xây dựng một lư thuyết chánh trị. Và mong những con người Việt nam mới ấy sẽ xây dựng lại một Việt nam, dung ḥa đựơc cái Tân cái Cổ, cái Dân chủ của tinh thần đ́nh làng ḥa hợp với cái Dân chủ Pháp trị Hiến định, cái tôn trọng Nhân quyền toàn diện với cái tôn trọng những quyền tự nhiên trong gia đ́nh, xă hội. Áp dụng được thuyết âm dương vào đời sống vật chất hằng ngày, vào liên hệ tương quan trong những từng lớp xă hội, trẻ già hổ trợ lẫn nhau, người hưu giữ trẻ, người hải ngoại đem kỹ thuật giúp người nội địa, người nội địa vun đắp cho quê hương đẹp hơn.

 

Mong thay!

Hồi Nhơn Sơn   1er /  07/  2003

Nam linh Phan Văn  Song 

 

(1)      Lê Mộng Nguyên, in " Cộng Đồng Việt Nam tại Pháp", Định Hướng số 35, Trung Tâm Văn Hoá Nguyễn Trường Tộ - Reichstett - France trang  81

(2)      Nguyễn Văn Trần, in " Cộng đồng và Dân chủ qua nếp sống văn hoá việt nam", sđd nt, trang 71

(3)       Nguyễn Văn Trằn, in " Cộng đồng và Dân Chủ ..." sđd, nt.