Thử nghiệm
chung sống của người Việt
trên nước Đức sau ngày thống nhất
Vũ Quốc Dụng
Frankfurt, cuối tháng 6.2003
Đức và Việt Nam là 2 nước có
lịch sử rất giống nhau. Cả 2 nước đều bị chia đôi, một nửa cộng sản một
nửa tự do, cũng có làn sóng tỵ nạn lớn, rồi cuối cùng được thống nhất, tuy
ở dưới hai chế độ khác nhau. Khi nước Đức thống nhất, người Việt sống ở
Tây Đức và người Việt từng ở các quốc gia Đông Âu cũ đă gặp nhau trong một
hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ và thú vị, bất ngờ và thú vị như cuộc xum họp
Đông và Tây Âu. Trước năm 1990 họ ở trong những môi trường biệt lập, ít có
hiểu biết về nhau, nhiều khi c̣n có thành kiến với nhau. Ngoài điểm chung
là chủng tộc, tiếng nói, văn hoá, ngoài niềm vui gặp lại nhau trên đất
nước dân chủ tự do, họ khác nhau từ xuất thân đến quan niệm sống và tâm lư
chính trị. Họ gặp nhau trên nước Đức thống nhất giống như những người
khách đến sống chung với nhau trong một căn nhà trọ.
Như trong những cư xá sinh viên,
khi phải sống chung gần gũi trong một thời gian dài với nhau, nếu khách trọ
là những người hợp giơ (jeux) và hợp gu (goût) th́ cuộc chung sống sẽ
xuông xẻ, vui vẻ, thoải mái cho mọi người. Nhưng nếu gặp phải những người
khó tính hoặc những người sống bừa băi và vô trách nhiệm th́ đời sống hàng
ngày sẽ đầy dẫy những bực bội, nghi kỵ. Những khách trọ sẽ gờm nhau, chờ
cơ hội để bắt bẻ và đổ lỗi cho nhau. Nhưng nếu không dọn nhà đi nơi khác
được, th́ cho dù không có cảm t́nh, không có cùng quan điểm chính trị với
nhau th́ người ta vẫn phải sống chung với nhau, và trong chừng mực nào đó
phải chấp nhận nhau và giữ giới hạn của ḿnh. Và người ta sẽ phải t́m cách
giải quyết những mâu thuẫn.
Hai nhóm người Việt ở
Đức
Để đơn giản vấn đề, bài này sẽ
xem người Việt sống ở Đức
gồm hai nhóm lớn, trong đó mỗi nhóm có
chung một số đặc điểm tâm lư và xă hội gần giống nhau. Nhóm đầu gồm các
thuyền nhân và gia đ́nh - khoảng 40.000 người - được Tây Đức tiếp nhận
nhân đạo trong khoảng thời gian từ 1976 đến 1982. Nhóm thứ hai - khoảng
80.000 người - gồm những người Việt ở Đông Đức hoặc ở các nước Đông Âu
khác đến Đức sau khi bức tường Berlin bị xụp đổ.
Phần đông các thuyền nhân được
nhận vào Đức trong khoảng thời gian làn sóng vượt biển t́m tự do của người
Việt dân cao. Đa số đă được nhận từ tàu Cap Anamur hoặc bốc đi từ các trại
tỵ nạn ở Đông Nam Á. Đa số là người miền miền Nam v́ trong giai đoạn đó
người miền Bắc chủ yếu t́m đường tỵ nạn sang Trung Quốc. Họ là những nạn
nhân của chế độ cộng sản, liều thân ra biển t́m tự do, t́m cuộc sống mới,
cho nên họ có lập trường chống cộng khá rơ ràng. Khi ra đi họ đă dứt khoát
với chế độ và cả quê hương, nghĩa là họ trù tính sẽ xa quê hương lâu dài,
ít nhất trong thời gian khi quê hương c̣n chế độ CS. Trên đất nước tạm
dung - thực ra là quê hương thứ hai của họ - họ đă xây dựng một cuộc sống
mới với gia đ́nh và bạn bè. Họ cố gắng xây dựng cộng đồng người Việt hải
ngoại và xem đó là vùng đất của người Việt tự do. Hầu như tất cả các sinh
hoạt đều tự nhiên mang màu sắc chính trị chống cộng, như một sự khẳng định
lập trường của những người vượt biển t́m tự do.
Về mặt hội nhập, nhóm thuyền
nhân - nhờ được tiếp nhận theo một đạo luật chính thức - đă được chính phủ
Đức cho hưởng rất nhiều ưu đăi. Phần ḿnh các thuyền nhân cũng tỏ ra biết
ơn và có nhiều cố gắng. Họ được đi học tiếng Đức, được lo ăn lo ở, t́m
nhà, giúp đỡ học chữ, học nghề, t́m việc. Chính phủ Đức cho mở đủ loại các
văn pḥng để cố vấn, giúp đỡ cho người thuyền nhân Việt Nam. Đến khoảng
năm 1989-1990, khi thấy việc hội nhập xă hội của người Việt đă khá thành
công, chính phủ Đức mới cắt giảm những chương tŕnh trợ giúp cho người
Việt. Việc hội nhập người Việt đến nay vẫn được xem như một mẫu mực cho
việc hội nhập người ngoại quốc ở Đức. Do khả năng hội nhập cao và do người
Đức có nhiều thông cảm với hoàn cảnh của đất nước Việt Nam, nhóm thuyền
nhân được người Tây Đức đặc biệt quư mến. Hầu như người ta chỉ nghe tiếng
khen. Nên ra đường, thuyền nhân tự hào nhận ḿnh là người tỵ nạn Việt Nam.
Nhóm thứ hai là nhóm người Việt
Đông Âu. Danh từ này đúng ra được dùng để chỉ những người Việt có thời
gian làm việc hoặc du học ở các quốc gia Đông Âu cũ. Sau này v́ lư do tiện
dụng người ta cũng gọi những người đi thẳng từ Việt Nam hoặc đă mượn đường
Đông Âu để vào Đức từ sau năm 1990 là Người Việt tỵ nạn Đông Âu hay Người
Việt Đông Âu.
Vào năm 1989 - năm cao điểm của
chính sách xuất khẩu người lao động Việt Nam sang các nước xă hội chủ
nghĩa - có khoảng 230.000 công nhân lao đông hợp tác Việt Nam (CN LĐHT)
sinh sống ở Đông Âu. Hồi đó, để trám vào
lỗ hổng gây ra bởi việc các người thợ bản xứ bỏ đi tỵ nạn
, thí dụ Đông Đức đă phải cấp tốc đưa một
số lượng lớn nhân công ngoại quốc vào để làm cả những công việc chân tay
b́nh thường nhất.
Kể từ giữa thập niên 80, để trả
nợ và để giảm bớt áp lực của nạn thất nghiệp, chính quyền CS ở Việt Nam đă
cho xuất cảng ồ ạt nhân công sang các nước Đông Âu. Do đó việc xét lư
lịch không c̣n gắt như trước nữa, đa số CN LĐHT không c̣n phải là con ông
cháu cha hoặc thành phần chính trị được ưu đăi nữa, tuy đa số vẫn là người
Bắc. Trong số này có rất nhiều người đă tốt nghiệp đại học ở trong và
ngoài nước (thầy giáo, bác sỹ, kỹ sư, dược sỹ) đi theo đoàn lao động hợp
tác ở Đông Âu để mong cải thiện kinh tế gia đ́nh và t́m một cuộc sống đỡ
tù túng hơn là ở Việt Nam trong một khoảng thời gian hạn định (thường là 4
năm). Càng về sau, để tiết kiệm chi tiêu, nhiều nước Đông Âu – thí dụ như
Đông Đức – đă cắt giảm tối đa chương tŕnh trợ giúp hội nhập cho công nhân
Việt Nam. Công nhân Việt chỉ được cho học ngoại ngữ tối thiểu để hiểu
mệnh lệnh trong xưởng. Họ sống bên lề xă hội ở quốc gia sở tại, cách biệt
hoàn toàn với dân bản xứ. Về phần ḿnh, người CN LĐHT cũng chỉ mong kiếm
được nhiều tiền để mua hàng gửi về cho gia đ́nh làm vốn, không thiết tha
đến vấn đề hội nhập và ít gắn bó với các xă hội Đông Âu. Nạn kỳ thị chủng
tộc và nạn săn rượt ngoại kiều ở các nước Đông Âu trong thời kỳ chuyển đổi
sau đó - do đó -là hậu quả của chính sách cô lập nhân công ngoại quốc
thiển cận của các chính quyền cộng sản Đông Âu.
Khi các chế độ cộng sản ở Đông
Âu xụp đổ, một số công nhân và sinh viên Việt Nam ở đó đă tham gia vào các
phong trào dân chủ bản xứ, viết báo, vùng lên chống lại sự o ép, kiểm soát
của sứ quán CSVN. Do sợ bị trả thù, sợ bị đuổi về nước, bị kỳ thị chủng
tộc và muốn t́m cuộc sống bảo đảm hơn nên họ t́m sang các nước Tây Âu, chủ
yếu là sang Đức để xin tỵ nạn. Từ cuối năm 1989 đến năm 1993 đă có khoảng
50.000 người từ các nước Đông Âu sang Đức tỵ nạn chính trị
.
Cuộc sống của người Việt tỵ nạn
Đông Âu trên nước Đức sau ngày thống nhất rất phức tạp. Khác với nhóm
thuyền nhân, cuộc sống và tương lai bấp bênh đă chi phối phần lớn những
suy nghĩ, hành động và thái độ của người Việt Đông Âu tại Đức. Khác với
người thuyền nhân đă được Đức chấp nhận cho tỵ nạn từ trước khi họ bước
chân vào nước Đức, mỗi người Việt Đông Âu đă phải vật lộn rất cam go với
pháp luật để được ở lại Đức. Trong hoàn cảnh không được đi làm hoặc chỉ
được cho làm những việc có mức lương rất thấp th́ việc xin tỵ nạn là một
món hàng xa xỉ, một sự đầu tư rất lớn của gia đ́nh. Để kéo dài thời gian
được ở lại Đức nhiều người đă phải trả đến 10.000 Euro, một số tiền rất
lớn so với đồng lương bé nhỏ của họ. Nếu có thêm gánh nặng gia đ́nh, đa số
có gia đ́nh v́ đang ở độ tuổi 30 – 40, th́ thời gian chờ đợi thấp thỏm,
ṃn mỏi và kéo dài hàng 10 năm trời đă ảnh hưởng rất lớn đến tâm lư của
họ. Đến khi có được một mảnh giấy cho phép cư trú hợp pháp th́ nhiều người
đă sống gần 20 năm sống ở nước ngoài và mới có thể bắt tay tạo dựng cuộc
sống mới được.
Một số thành kiến,
định kiến và bất đồng
Uy tín cộng đồng và những tệ
nạn
Sau khi nước Đức thống nhất, các
CN LĐHT ở Đông Đức đều bị mất việc. Ngoài khoảng 6.000 người chạy sang Tây
Đức xin tỵ nạn ngay khi cổng thành Brandenburg được mở ra, c̣n th́ phần
lớn chấp nhận món tiền bồi thường 3.000 DM để về nước. Một số khoảng
10.000 người cố nán ở lại Đức để nghe ngóng hoặc t́m cách vớt vát kiếm
thêm ít tiền trước khi về. Họ không thể t́m được việc làm trong hoàn cảnh
hầu hết các xí nghiệp Đông Đức bị đóng cửa. Sự hành hung của đám Phát-xít
đầu trọc càng làm gia tăng tâm trạng bất ổn của người Việt. V́ không biết
c̣n được ở lại bao lâu nên người Việt ở Đông Đức đă liều lĩnh ra đường
đứng bán thuốc lá lậu. Sau khi chính phủ Đức cho phép những cựu CN LĐHT
được phép ở lại lâu dài (1993) th́ trên các hè phố người ta chỉ c̣n thấy
người đang xin tỵ nạn, không có giấy tờ cư trú hợp lệ đứng bán thuốc lậu.
Tuy người Việt chỉ buôn bán c̣ con, nhưng v́ nh́n thấy ở góc đường nào
cũng chỉ có người Việt đứng bán thuốc nên dân Đức đồng hoá nạn bán thuốc
lá lậu với người Việt. Thêm vào đó nạn băng đảng Việt Nam thanh toán nhau
đẫm máu, hành quyết nhau một cách dă man vào giữa ban ngày trên đường phố
cũng gây kinh hoàng cho một xă hội Đức lâu nay sống ổn định, trật tự và sợ
bạo lực. Ác cảm với người Việt Nam xuất phát từ đó.
Việc tỵ nạn hay nói đúng hơn
việc được ở lại Đức là một vấn đề đè nặng tâm tư của người Việt Đông Âu.
Họ làm mọi cách để đạt được mục đích này. Chính quyền Đức càng nâng cao
tiêu chuẩn tỵ nạn lên bao nhiêu th́ họ càng hoạt động chính trị ráo riết
và táo bạo bấy nhiêu. Họ tranh nhau ra báo, thành lập hội đoàn, đứng tên
tổ chức biểu t́nh chống CS, giành nhau lên bục phát biểu hoặc giành nhau
chụp h́nh để làm bằng chứng. Đối với một số người, việc ngụy tạo giấy truy
nă hoặc nhờ các báo chí trong nước đăng lời thóa mạ không phải là việc khó
làm. Ngay cả những người bị truy bức thật sự cũng khó t́m được đầy đủ bằng
chứng hơn họ. Bằng chứng tỵ nạn trở thành món hàng buôn bán nên những lời
khai tỵ nạn không c̣n giá trị trong con mắt nhà cầm quyền Đức. Tỷ lệ công
nhân tỵ nạn đối với người Việt nhanh chóng giảm xuống gần số không. Và kể
từ năm 1995, chính phủ Đức bắt đầu trả về Việt Nam những người không được
tỵ nạn. Nhưng hàng năm vẫn c̣n 1.000 – 2.000 người Việt vào Đức xin tỵ
nạn. Để được ở lại Đức, họ sẵn sàng ly dị với nhau để làm giấy hôn thú giả
với người có giấy phép cư trú ở Đức. Trong những năm gần đây các đường dây
buôn người lậu đă đưa trẻ em vào Đức để bắt chúng đi bán ma túy và ăn cắp
đồ siêu thị.
Cộng đồng thuyền nhân ở Đức cảm
thấy danh dự người Việt bị xúc phạm nặng nề, luôn luôn phải cải chính cho
những thành kiến xấu, bao nhiêu tiếng tốt xây dựng được từ bấy lâu nay
bỗng tan thành mây khói. Ngoài ra v́ cho rằng một hệ thống an sinh xă hội
rất tốt như của Đức không để cho ai bị đói đến nỗi phải đi làm bậy - kể cả
người xin tỵ nạn cũng được nhận đầy đủ tiền trợ cấp xă hội - nên các
thuyền nhân càng không thể chấp nhận, tha thứ cho những hành động phạm
pháp của những đồng hương. Về điểm này họ hoàn toàn khác ư kiến với người
Việt Đông Âu. Người Việt Đông Âu thường có thái độ thông cảm với những kẻ
phạm tội buôn bán thuốc lá lậu, nói chung có thái độ dễ dăi với những hành
động phạm pháp. Họ dễ tha thứ v́ cho rằng hoàn cảnh bắt buộc người ta phải
hành động như vậy, hoàn cảnh ở đây được hiểu là những món tiền mượn nợ để
trốn đi nước ngoài, là nhu cầu phải có tiền vốn để đề pḥng trường hợp bị
đuổi trở lại Việt Nam. Trong việc xin ở lại nước Đức, người Việt Đông Âu
xem cứu cánh biện minh cho phương tiện. Rất ít người Việt Đông Âu cảm thấy
phải làm một cái ǵ đó để cứu văn danh dự của cộng đồng hoặc xây dựng cộng
đồng. Có lẽ họ chưa có ư thức về cộng đồng và cũng không thấy cần gắn bó
với đất nước Đức như những thuyền nhân. Đối với họ tranh sống là ưu tiên
hàng đầu.
Quan điểm chính trị
Giữa những người Việt tỵ nạn
Đông Âu cũng có những khác biệt về quan điểm chính trị đối với chính quyền
CSVN. Những người Việt nào từng tham gia vào các phong trào hoặc tờ báo để
chống lại sự o ép của sứ quán CSVN ở Đông Âu trong giai đoạn 1989-1990
thường có ư thức và tŕnh độ chính trị rất cao. Chọn lựa chính trị này đối
với nhiều người là sự thực hiện ước mơ tự do. Nhưng nói chung, những người
Việt sống ở Tiệp hoặc Hung từ hồi giữa 1989 đến cuối năm 1990 là những
người đă nếm mùi tự do và niềm vui t́m lại được tự do. Đi sang Đức họ mong
họ sẽ được hưởng nhiều tự do và có cuộc sống ổn định hơn nữa. Hai nhóm nêu
trên khác với nhóm người đến Đức vào khoảng giữa thập niên 90. Nhóm sau
này mang nhiều đặc tính của di dân kinh tế hơn là tỵ nạn chính trị.
V́ luật Đức không có qui chế di
dân nên tất cả mọi người Việt Đông Âu muốn ở lại Đức đều phải làm đơn xin
tỵ nạn chính trị, mặc dù họ không bị chế độ CSVN truy bức. V́ thủ tục tỵ
nạn chỉ mang tính h́nh thức nên nó không phản ánh được quan điểm chính trị
của người làm đơn. Nhưng dù người Việt Đông Âu có lập trường dân chủ rơ
rệt và không thân cộng sản th́ họ cũng có tập quán sinh hoạt chính trị
khác với tập quán của những thuyền nhân ở Đức. Hồi đầu thập niên 90, khi
tham dự chào cờ trong những sinh hoạt chính trị chống cộng của thuyền
nhân, ban đầu nhiều người Việt Đông Âu đă tự động hát bài Tiến quân ca
quen thuộc. Gia đ́nh họ có nhiều người đă chết dưới lá cờ đỏ sao vàng,
hoặc chết trong những trận đánh bom của máy bay Mỹ. Bản thân hoặc thân
nhân của họ đă hoặc vẫn c̣n làm việc cho chế độ CS. Nếu có chống, th́ họ
chống đảng CS trong tư thế đối lập chứ không v́ hận thù. Ít có người nào
v́ khác chính kiến mà có thể dứt khoát từ cha bỏ mẹ được và đa số vẫn c̣n
liên lạc thân t́nh với thân nhân, bạn bè, người đồng nghiệp c̣n ở trong
nước.
Nhiều thuyền nhân hay các tổ
chức chính trị hải ngoại đă ngộ nhận về lập trường chính trị của người
Việt Đông Âu, cho rằng họ cũng thù ghét CS và sẽ có hành động tố cộng như
ḿnh. Việc ngộ nhận này càng dễ xảy ra khi một số người Việt Đông Âu – v́
cần bằng chứng chính trị để xin tỵ nạn – đă tham gia vào các họat động
chính trị, ăn nói chống chính quyền CSVN như những thuyền nhân, cũng chào
cờ vàng và cũng hát quốc ca VNCH. Có một số tổ chức chính trị chống cộng
c̣n xem ḿnh phải có nhiệm vụ „cải hóa“ người Việt Đông Âu thành người
chống cộng mà không lưu tâm đến bản sắc của người Việt Đông Âu. Một số
người Việt Đông Âu tự trọng (lúc đó cũng đang chống độc tài cộng sản) đă
khó chịu về thái độ dạy bảo trịch thượng của một số người lănh đạo phong
trào chống cộng. Hồi giữa thập niên 90 đă có một cuộc tranh luận khá gay
gắt trên báo chí giữa một số hội đoàn thuyền nhân và hội đoàn người Việt
Đông Âu về danh từ „Người Việt tỵ nạn Đông Âu“ (một số thuyền nhân cho
rằng danh từ này làm phân hóa tập thể tỵ nạn), về thủ tục chào cờ vàng ba
sọc đỏ, và về các hoạt động biểu t́nh chống văn hóa, văn công CS. Sau đó
các hội đoàn người Việt Đông Âu đă cùng nhau thành lập Ủy ban Điều hợp
Hoạt động của Người Việt Đông Âu để biểu lộ tính độc lập của ḿnh. Về mặt
chính trị, một số các tổ chức người Việt Đông Âu cũng đă có vài hoạt động
khá độc đáo như đă phỏng vấn và liên lạc giúp đỡ các cá nhân chống chế độ
CS ở miền Bắc, đưa ra công luận vụ đàn áp „Nhóm Xét lại chống Đảng“ v.v...
Dù có khác biệt quan điểm về phương cách hoạt động chính trị nhưng các hội
đoàn của người thuyền nhân và người tỵ nạn Đông Âu vẫn có những hợp tác
theo vụ, thí dụ như trong những vụ biểu t́nh cần nhiều người tham gia.
Thử nghiệm sống chung
Sau hơn 10 năm thống nhất chính nước Đức
vẫn c̣n loay hoay giải quyết vấn đề Ossis-Wessis (kẻ Đông, người Tây), một
hậu quả của sự chia cắt lâu dài, và những hậu quả do chế độ độc tài toàn
trị CS để lại. Phần các khách thập phương Việt Nam đến Đức cũng thế. Trong
hành trang của họ có nhiều nghi kỵ Bắc – Nam, phân biệt cộng sản – không
cộng sản, tự tôn /tự ty kẻ đi trước - kẻ đến sau, nhiều thói hư tật xấu
của một xă hội Việt Nam đảo điên.
Muốn sống chung người Việt cần giải quyết
những mâu thuẫn chính giữa họ với nhau và chống đỡ lại những âm mưu phân
hóa từ bên ngoài. Giải quyết ổn thỏa giấy tờ ở lại, ổn định cuộc sống gia
đ́nh, sống có niềm tin vào tương lai là những điều kiện để người Việt Đông
Âu ổn định tinh thần và t́m lại mối giao hảo b́nh thường với người chung
quanh. Người ta quan sát hiện tượng này rất rơ ở Rostock, một thành phố cảng
cực bắc của Đông Đức. Sau năm 1990, có đến 90% người CN LĐHT Việt Nam sống
tại đó ra đường bán thuốc lá lậu và kích thích thêm nạn kỳ thị người ngoại
quốc ở Đông Đức. Sau vụ thanh niên phát xít đốt khu chung cư Lichtenhagen,
chính quyền bang đă đặc biệt cho phép hầu hết người Việt tại Rostock được
ở lại. Từ đó nạn buôn bán thuốc lậu của người CN LĐHT ở Rostock hầu như
biến mất. Tương tự, hai “Qui định cho những trường hợp tồn đọng lâu năm được
ở lại” được các bộ trưởng nội vụ Đức kư vào năm 1996 và 1999 cũng đă hàng
ngàn người tỵ nạn Việt Nam và gia đ́nh họ thoát khỏi thảm cảnh trục xuất.
Sau đó cuộc sống của những người Việt Đông Âu đă mau chóng trở lại b́nh
thường, rơ ràng nhất là ở tai Tây Đức. Một cách tự nhiên những xáo trộn
trước đó bỗng biến mất, môi trường bỗng ổn định trở lại, v́ h́nh như khi
ra đi ai cũng mong muốn t́m cho gia đ́nh ḿnh, cho con em của ḿnh một
cuộc sống yên ổn, không bị lừa lọc, gian dối và phản bội. Từ đó quan hệ
với của họ với nhóm thuyền nhân cũng tốt lên, với những giao du qua lại,
giúp đỡ lẫn nhau trong t́nh đồng hương.
Nhóm thuyền nhân cũng phải chấp nhận rằng
cộng đồng Việt Nam ở Đức trên thực tế đă thay đổi. Nhân số của nhóm thuyền
nhân hiện chỉ bằng một nửa số người Việt Đông Âu. Nhóm sau vừa đông, vừa
trẻ, vừa năng động nên sinh hoạt của cộng đồng không thể thiếu bóng của họ
và cũng sẽ bị thay đổi tương ứng. Từ lâu cộng đồng ở Đức không c̣n là
cộng đồng tỵ nạn CS, chống cộng đơn thuần nữa, mặc dù có nhiều người không
muốn tin điều này. Đa số người Việt Đông Âu cũng đă bỏ phiếu bằng chân để
bất tín nhiệm chế độ CSVN nên cũng không ưa ǵ chế độ này. Nhưng trong
chừng mực nào đó, một số đă chống độc tài theo cách riêng của họ. Chấp
nhận bản sắc riêng này là tạo cho người Việt Đông Âu một chỗ đứng, một sự
tự tin về mặt chính trị. Trong thời gian gần đây, người Việt Đông Âu cũng
đă tham gia một cách tự nhiên trở lại vào một số sinh hoạt chính trị của
các hội đoàn truyền nhân, mặc dù điều này có thể gây khó khăn cho họ đối
với sứ quán CSVN. Nếu có những người v́ quán tính c̣n có lập trường mơ hồ
về chế độ CSVN th́ những tổ chức đấu tranh cũng phải kiên nhẫn với họ. Một
sự hội nhập về mặt xă hội thể nào cũng sẽ kéo theo sự hội nhập về chính
trị. Ở đâu nếu không phải là nước Đức, với một cơ chế dân chủ vững chắc,
những người Việt tự do có điều kiện để t́m nhiều bằng chứng và phương tiện
hơn để thuyết phục họ về những giá trị tự do dân chủ? Nếu trong tương lai
nước Việt Nam có dân chủ, nếu người Việt ở Đức có trở về sống tại Việt Nam
th́ họ sẽ đem về những kinh nghiệm của sự hội nhập chính trị của người
Việt Đông Âu để xây dựng nền dân chủ non trẻ.
Người Đức
thật may mắn khi có một chính phủ cố san bằng cách biệt Đông-Tây và giúp
đỡ cho Đông-Tây ḥa hợp. Trong khi đó chính quyền CSVN lại không muốn thấy
có một sự ḥa hợp trong cộng đồng người Việt ở ngoài tầm kiểm soát của họ,
nhất là không muốn thấy sự bành trướng ảnh hưởng của những người không ủng
hộ chính quyền CSVN. Chính quyền CSVN đă cho thành lập những hội đoàn dễ
bảo ở Đông Đức, t́m cách gây khó dễ cho những hội đoàn độc lập và ngăn cản
sự đối thoại trong cộng đồng. Chính quyền CSVN hiện vẫn t́m cách khống chế
những người Việt Đông Âu đă được Đức cho ở lại lâu dài nếu những người này
c̣n mang hộ chiếu Việt Nam, c̣n muốn về thăm gia đ́nh hoặc c̣n muốn quan
hệ buôn bán với các công ty trong nước. Cuộc sống chung của người Việt ở Đức
do đó có thể bị những âm mưu thao túng, phân hóa, khủng bố, bắt chẹt của
chính quyền CSVN cản trở. Để đối phó lại, ngày càng có nhiều người Việt Đông
Âu xin gia nhập quốc tịch Đức. Việc cắt đứt sự phụ thuộc này sẽ tạo thêm điều
kiện thuận lợi cho sự chung sống của người Việt ở Đức.
Tóm lại kinh nghiệm sống chung cho thấy, trong điều kiện b́nh thường,
nghĩa là khi người Việt ở Đức không c̣n phải bận tâm về vấn đề giấy tờ cư
trú, th́ họ sẽ giải quyết được những mâu thuẫn nội tại giữa người Việt với
nhau cũng như tự bảo vệ được ḿnh trước những áp lực từ phía ngoài. Nếu họ
xem ḿnh thuộc về một cộng đồng và cần có một cộng đồng. Thiện chí, thông
cảm và bao dung là điều kiện cần thiết. Tuy nhiên người Việt ở Đức sẽ phải
quan tâm nhiều hơn nữa đến những kỹ thuật đối thoại v́ đối thọai là một
yếu tố mới trong đời sống cộng đồng của người Việt. Cộng đồng người Việt ở
Đức sẽ luôn luôn phải đối phó với những dư luận bất lợi, ngày nào mà những
người Việt ở Đông Đức chưa hội nhập được vào xă hội Đức và những tệ nạn do
làn sóng di dân mới tiếp tục xảy ra.
. |