Câu ḥ chuyển tải cả một trời tâm sự đầy nước mắt về một vị vua trẻ tuổi, sẵn
sàng từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân vào chốn hiểm nguy để mong cứu lấy
giang sơn gấm vóc đang đọa đày dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Vị vua trẻ tuổi
đó là Duy Tân. Và , tác giả câu ḥ bất hủ đó là cụ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị, ‘ Một
Thi Ông có tiếng của làng Nho nước nhà’, mà trong giới tao nhân mặc khách từ
trong Nam cho đến tận ngoài Bắc không ai là không nghe danh và biết tiếng.
Ưng B́nh Thúc Giạ Thị là một đấng vương tôn, con cụ Hiệp Tú Tiểu Thảo Hường Thiết,
cháu nội ngài Tuy Lư Vương Miên Trinh, đă đỗ cử nhân Hán học (1909) , được bổ
làm tri huyện, rồi tri phủ, bố chánh Hà Tĩnh. Khi về hưu được phong hàm Thượng
Thư, Hiệp Tá Đại Học Sĩ, từng giữ chức Viện Trưởng Viện Dân Biểu Trung Kỳ
(1940-1945). (Giáo sư Bửu Cầm, người bảo trợ luận án cao học cho tôi ở đại học
văn khoa Sài G̣n, cũng thuộc ḍng dơi Tuy Lư Vương, cháu gọi cụ Ưng B́nh bằng
chú ruột). Cuộc đời hoạn lộ của cụ khá dài nhưng mục đích đời cụ lại là con đường
nghệ thuật thi ca:
‘ Vỹ Dạ thôn có lăo vương tôn là Thúc Giạ
Ưng ca, ưng hát, ưng giă gạo ḥ khoan
Ham vui điệu cổ thi đàn
Nghe câu tuyệt xướng muôn vàng cũng mua’
(Ưng B́nh Thúc Giạ Thị)
‘Ông sở trường về nhiều thể loại: thơ chữ Hán và quốc ngữ, tuồng và ḥ Huế, thể
loại nào cũng nhuần nhị yếu tố nghệ thuật bác học với dân gian. Nhiều câu ḥ của
ông đă thấm sâu vào ḷng người một cách tự nhiên và trở thành câu ḥ dân gian
phổ biến cả trong lẫn ngoài nước.
Thơ chữ Việt của Ưng B́nh Thúc Giạ Thị có trên ngàn bài, thơ chữ Hán có ‘Lộc
Minh thi tập’ gồm 227 bài, hát bội có tuồng ‘Lộ Địch’. Một số tác phẩm của ông
đă được xuất bản gồm: ‘T́nh Thúc Giạ’ (1942), ‘Bán Buồn Mua Vui’ (1954), ‘Đời
Thúc Giạ’ (1961), ‘Tiếng Hát Sông Hương’ (1972), ‘Thơ Ca Tuyển’ (1992). Trong số
các tác phẩm đă xuất bản của ông , đáng chú ư có tuồng ‘Lộ Địch’ xuất bản lần
đầu năm 1936, tái bản năm 1959. Cốt truyện dựa theo tác phẩm ‘Le Cid’ của nhà
văn Pháp P. Corneille. Tuồng ‘Lộ Địch’ được công diễn từ những năm 1928, đă gây
tiếng vang trên sân khấu miền Trung và miền Nam một thời. Điểm đặc sắc ở tuồng
‘Lộ Địch’ khác hẳn với nguyên tác ‘Le Cid’ là kết cuộc, tác giả đă để nhân vật
nữ chính Chi Manh đi tu để giữ được trọn vẹn phẩm giá người phụ nữ theo tinh
thần Á Đông.
Ngoài tuồng ‘Lộ Địch’, ông c̣n viết tuồng ‘Tào Lao’ dựa theo một chuyện xưa.
Trong vở tuồng này, ông đă sử dụng tới 21 làn điệu dân ca xứ Huế...’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , Hồi Ức Về Cha Tôi ... , nxb Văn Nghệ , Sài G̣n , 2002 , tr.
14)
Ưng B́nh Thúc Giạ Thị với sự nghiệp văn chương đồ sộ, nhất là công lao trong
việc h́nh thành bộ môn nghệ thuật ca trù của Huế, quả thực đă đi vào trái tim
của nhiều thế hệ qua ḍng lịch sử văn học Việt Nam từ buổi giao thời tân cựu cho
đến ngày nay.
Điều may mắn hơn nữa là gia tài văn học quư giá đó của cụ lại được người con gái
mà cụ hết ḷng yêu quư, Tôn Nữ Hỷ Khương, chắt chiu ǵn giữ qua bao thăng trầm
của đời người và bao đổi thay của thời thế. Nhờ vậy, mà các thế hệ sau này,
trong nước và hải ngoại, vẫn dễ dàng t́m gặp lại các điệu hát, câu ḥ mà chính
cụ đă từng sáng tác. Cuộc đời và thi ca của cụ, chắc chắn cũng như Tùng Thiện
Vương, Tuy Lư Vương, sẽ trở thành những đề tài nghiên cứu hàn lâm cho các sinh
viên ngành văn chương và sử học để được cấp học vị Cao học hay Tiến sĩ ...
Trở lại với cuốn sách ‘Hồi Ức Về Cha Tôi: Ưng B́nh Thúc Giạ Thị’ của Tôn Nữ Hỷ
Khương. Tác phẩm này đă ấn hành vào năm 1996 và đă được tái bản vào năm 2002 với
nhiều phần bổ sung . Sách chia làm nhiều phần: phần hồi ức của chính tác giả ,
phần ghi nhận cảm nghĩ của các bậc thức giả về nhà thơ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị, và
phần tŕnh bày một số thi ca mà chị Tôn Nữ Hỷ Khương đă sáng tác lấy từ nguồn
hứng liên hệ đến người cha yêu quư và người mẹ thân thương.
Thực ra, chị Hỷ Khương đă đi theo con đường thi ca của cha ḿnh từ lâu rồi, ngay
khi chị c̣n là đứa bé lên mười! Bóng dáng người cha đă ảnh hưởng lớn lao trên đường
hướng sáng tác của chị. Từ ‘Đợi Mùa Trăng’ (1964) đến ‘Mộng Thanh B́nh’ (1970)
cho đến về sau này ‘C̣n Gặp Nhau’ (1999), rồi mới đây ‘Bâng Khuâng T́nh Khúc’
(2001), người đọc đều thấy rơ h́nh ảnh trùm phủ trên ḍng thơ của chị là vị tiên
ông Ưng B́nh Thúc Giạ Thị. V́ thế, không ai ngạc nhiên khi bắt gặp được trong
‘Hồi Ức Về Cha Tôi ...’ biết bao h́nh tượng đầy xúc động và biết bao hồi tưởng
ngọt ngào, đọc lên thấy cái ǵ đó cay cay trong ḷng mắt:
‘Trăng vẫn sáng, t́nh trăng gợn sóng
Nước vẫn vàng, xao động nước Hương Giang
Ngự B́nh mộng vẫn chứa chan
Trăng xưa, nước cũ, mơ màng bóng ai ...
Mấy chục năm qua vẫn nhớ Người
Dáng h́nh từ phụ chẳng hề phai
Lời xưa di huấn thời son trẻ
Con vẫn mang theo suốt cuộc đời’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , Hồi Ức Về Cha Tôi ... , sđd , trang 303)
Chị đă học được từ cụ Ưng B́nh ḷng khoan dung, tính giản dị, chân thật, ḷng
yêu thương con người, thiên nhiên và cây cỏ ... Tất cả đă khắc ghi trong ḷng
chị, trên suốt cuộc hành tŕnh của cả một đời người:
‘Lời xưa di huấn thời son trẻ
Con vẫn mang theo suốt cuộc đời’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , sđd , tr. 303)
Đời dù nhuốm sắc phù vân
Thi ca cha vẫn trong ngần bóng gương
Giở từng trang luật Thịnh Đường
Tuồng xưa tích cũ từ chương sáng ngời
Nhớ thương thấm nhập đầy vơi
Bao nhiêu năm vẫn ghi lời huấn xưa:
‘Mặc đời sớm nắng chiều mưa
Mặc ai sau trước, lọc lừa cạnh tranh
T́m trong cuộc sống an lành
Yêu thương, nhân ái, chân thành, vị tha’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , sđd , tr. 325)
Trong cuốn ‘Hồi Ức Về Cha Tôi : Ưng B́nh Thúc Giạ Thị’, từ trang 29 đến trang
120, chị Hỷ Khương đă kể lại những mẩu chuyện nho nhỏ, những công việc nổi bật,
những người thân mà cụ Ưng B́nh đă giao tiếp và nhất là lối sống giản dị nhưng
đầy nhân bản trong cuộc sống hàng ngày của cụ. Bốn mươi ba mẩu chuyện trong phần
hồi ức mà chị Hỷ Khương ghi lại với lối văn trong sáng, đầy xúc động đă dẫn dắt
người đọc đi từ thú vị này đến thú vị khác và tưởng như ḿnh đang đọc lại những
câu chuyện kể trong ‘Cổ Học Tinh Hoa’ của một thời thơ ấu.
Câu chuyện mà chị Hỷ Khương kể lại trong ‘Cái Bến Sông’ thật là xúc động, tuy
đơn giản nhưng thể hiện rơ nét về tấm ḷng thương người trong triết lư sống của
cụ:
‘Nhà tôi ở phía bờ sông Hương, có một cái bến xây rất đẹp, có tầng cấp xi măng,
hai bên có cây cừa rợp bóng mát mẻ, bà con trong làng thường qua bến nhà tôi tắm
giặt, gánh nước. Suốt mấy mươi năm cái bến riêng của nhà tôi trở thành cái bến
công cộng.
Trước cửa nhà tôi có miếu Ngũ Hành, mà con đường đi xuống bến sông phải đi qua
trước cửa ngôi miếu. Nhiều người trong nhà thường phàn nàn về sự việc này. Đó là
chưa kể trường hợp người lớn đi ngang về tắt, ồn ào, trẻ con đùa nghịch phá
phách, hái các thứ trái cây trong vườn mỗi khi xuống bến. Thỉnh thoảng lại c̣n
có người chở những vật liệu nặng ghé qua bến làm sập các tầng cấp v. v. ...
Một hôm bà mẹ đích của tôi nói với thầy tôi:
Có một thầy Tàu rất hay, tôi đă nhờ xem giúp một quẻ th́ ông ấy bảo rằng nhà
ḿnh bị ông bà quở trách v́ người đi lại ồn ào quấy nhiễu, v́ thế mà động đất
không yên .
Thầy tôi cười bảo :
Ông bà đâu có ác vậy. Tôi không bao giờ tin những điều như thế.
Sự việc này làm cho thầy tôi suy nghĩ. Cho nên, trong di chúc thầy tôi để lại có
một mục nói về chuyện cái bến sông: ‘Khi thầy mất rồi vẫn để cho bà con đi lại
b́nh thường, không nên cấm đoán’.
Tính đến nay đă mấy mươi năm, khi nào có dịp gặp lại những người hàng xóm cũ, họ
c̣n nhắc đến sự quan tâm và tấm ḷng rộng lượng của thầy tôi với niềm xúc động
khác thường. Họ nh́n tôi với ánh mắt đầy t́nh cảm thân thương. Thốt nhiên tôi
chợt tưởng nhớ đến h́nh ảnh yêu mến của người cha hiền. Ḷng bâng khuâng nhớ lại
những kỷ niệm của một thời xa lắc, đồng thời như vừa cảm nhận được một điều hạnh
phúc trời ban cho. Tôi sung sướng đến ứa lệ’ (Tôn Nữ Hỷ Khương, sđd , tr. 34 -
35) .
Câu chuyện ‘Gánh Chè Của Con Độ Bao Nhiêu ?’ cũng là một góc cạnh nữa để soi rọi
thêm tấm ḷng cao quư ấy:
‘Một hôm , trời mưa lất phất, sân nhà tôi có rêu trơn trượt. Bất ngờ có một chị
gánh chè bán dạo vào sân mời . Chẳng may chị trượt chân, cả người và gánh sóng
soài , chè đổ lênh láng. Hôm đó trong nhà có một cô cháu gái tới chơi , thấy cảnh
như vậy, cứ đứng cười thích thú. Thầy tôi la cô cháu:
Ôi, mau ra đỡ chị ấy dậy, rồi giúp dọn dẹp cho người ta, cớ sao đứng đó mà cười
thế ? Ồ, con nhỏ này như vậy là không được, như vậy là ác đấy con ạ!
Cô cháu gái nghe ra, đă cùng tôi chạy ra sân đỡ chị bán chè dậy và giúp chị ấy
thu dọn đồ hàng. Lúc này chị bán chè rưng rưng nước mắt, bởi biết hôm nay như
thế là lỗ to rồi.
Thầy tôi ở trong nhà đi ra, hiền từ bảo: ‘Gánh chè của con độ bao nhiêu? Ông cho
tiền, đừng khóc nữa .
Sau này, càng lớn lên, để ư quan sát, tôi mới thấy trong cuộc sống thường nhật,
bao giờ thầy tôi cũng chia sẻ cái vui, cái buồn với những người xung quanh .’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , sđd , trang 36)
Cuộc đời của cụ quả thật là h́nh ảnh của vị tiên ông đạo cốt, sống rất liêm
chính dù làm quan to, sống rất b́nh dị và ḥa đồng dù xuất thân từ chốn quyền
môn cao trọng .
‘Hàng ghế trong triều đ́nh có dịch lên năm bảy tấc hay thẻ bài thăng chức có
thêm lớn một vài ly cũng chẳng có nghĩa lư ǵ đối với Người. Có lẽ v́ Người đă
nhận thức cuộc đời :
Ḱa, bóng bạch câu qua chẳng lại,
Nọ, tranh thương cẩu có rồi không.
Dở cười , dở khóc trên sân khấu,
Khi nở , khi tàn mấy cụm bông.’
(Tôn Nữ Hỷ Khương , sđd , trang 109)
‘Hồi Ức Về Cha Tôi ...’ của chị Tôn Nữ Hỷ Khương là sự kết tụ thanh khí từ trái
tim chân thật của một người con gái hiếu thảo đối với cha mẹ và được chuyển tải
từ một tâm hồn coi thi ca là lẽ sống, thừa hưởng cả một gia tài thơ văn đồ sộ
của một ḍng tộc mà vua Tự Đức đă có lần hạ bút :
‘Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường’
Nhà thơ và là nhà phê b́nh văn học Diên Nghị trong nhóm Thi Văn Cội Nguồn đă có
lần nhận xét về chị Tôn Nữ Hỷ Khương, như sau:
‘Tác giả Tôn Nữ Hỷ Khương, người con gái út hồi ức rành mạch về thân phụ, qua
nhiều giai thoại, nhiều h́nh ảnh, nhiều kỷ niệm, với bút pháp giản dị, ngắn gọn,
lại diễn đạt khá đầy đủ ư tưởng, làm sống lại chân dung và cuộc đời của một vị
quan, vương giả mà b́nh dân. Một nhà thơ thanh cao, cảm hóa, chia sẻ ḷng thương
yêu con người và vạn vật thiên nhiên ...’
(Việt Nam Thời Báo , San Jose , USA , trang Văn Học Nghệ Thuật , tháng 12-2000)
Quả thực, Chị Tôn Nữ Hỷ Khương làm thơ rất hay và chị sử dụng văn xuôi rất trong
sáng giản dị. Mạch văn của chị thành thực đến độ tự nhiên, đi vào ḷng người một
cách nhẹ nhàng và đọng lại ở đó rất lâu. Bất cứ ai khi đọc cuốn sách đều thấy
xúc động và tưởng như ḿnh đang chơi vơi trong nỗi nhớ thương mênh mang về người
xưa, cảnh cũ; như chính ḿnh đang thẫn thờ theo ḍng hồi ức để cùng xẻ chia với
chị niềm hănh diện về một người cha cao quư, về một nhà thơ lớn của đất Thần
Kinh, nơi một thời đă từng là đế đô của triều Nguyễn ...
|