Liên lạc Nhân Văn

Đại Học Nhân Văn. Tập San Nghiên Cưu Nghị Luận Định Hướng. Đại Học Hè & Tuần Lễ Xă Hội
 

Xây dựng Quan Hệ và QUAN HỆ Xây Dựng

 

* Nguyễn văn Thành

 

Bài chia sẻ nầy bàn về thể thức xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người. Bao nhiêu cạm bẫy cản trở bước đường thành nhân của chúng ta đều nằm tại đây. Tuy nhiên, không có những đóng góp của kẻ khác - trong đó có những người t́m cách làm hại và đàn áp chúng ta - chúng ta có thành tựu được tất cả những ǵ đang tạo nên bản sắc của chúng ta trong cuộc đời hiện tại hay không ?

Nhằm trả lời cho vấn nạn nầy, trong Phần Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lănh vực « Người và Việc ».

Hẳn thực, trong lănh vực Người, bao lâu chúng ta  chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của nhau, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài ḥa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến tŕnh lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc, bao lâu chúng ta c̣n sống trên cơi đời này.

Trái lại, trong lănh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ư « cùng với nhau nh́n về một hướng », không chia sẽ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau.

Trong Phần Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan, trong chiều hướng thành người. Trên tiến tŕnh nầy, không có kẻ thua. Trái lại, xây dựng quan hệ hài ḥa và đồng cảm là cùng đích chúng ta cần nhắm tới. Trên con đường ấy, chúng ta không thể dấn bước một ḿnh.

Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đ̣i hỏi phải có kết quả trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người.

Bên này là một tiến tŕnh. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. Nói cách khác, một cách VÔ ĐIỀU KIỆN, tôi thực hiện những điều cần thực hiện, về phía bản thân của tôi. Tôi không thể chờ đợi hay là đ̣i hỏi kẻ khác phải làm người, để rồi tôi mới làm người.

Trong Phần Ba, tôi sẽ tŕnh bày thêm : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện, từ ngày hôm nay, không tŕ hoăn, trên tiến tŕnh xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đ́nh, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi ḷng mẹ, chưa hoàn toàn ư thức về ḿnh.

I- Người và Việc

Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc đời sống gia đ́nh, cũng như thuộc địa hạt xă hội. Ngay từ giây phút đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, nó đă cần quan hệ với người mẹ, hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc nó giống như một người mẹ. Nhờ đó, nó mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần phải quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn vai tṛ làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp.

Hẳn thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi ĺa đời, những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu :

-         Bài học thứ nhất, giữa người khác và tôi có những nét khác biệt « đương nhiên và ắt có ». Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người - người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng  - đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến tŕnh làm người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết thẹo...Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lư thuyết, họ là « vị đại diện hữu h́nh của Thượng Đế Vô H́nh », đang có mặt với tôi, trên những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời. Tuy nhiên, cũng v́ những nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia người Pháp J.P.SARTRE đă khẳng định : « người khác là hỏa ngục ».

-         Bài học thứ hai, giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc. Nhờ vào những đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy ḿnh là « một phần nửa » của nhau, đă cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung ḷng của một mẹ và một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền B́nh Trị Thiên, họ không ngần ngại gọi nhau là Ḿnh. « Ḿnh với Ta, tuy hai mà một. Ta với Ḿnh, sao một mà hai ? »

-         Bài học thứ ba, người khác và tôi CẦN nhau, trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích cực cũng như tiêu cực và phá hoại. Theo lối nh́n của nhà tâm lư xă hội  CRÈVECOEUR J.J. (1), khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng  như khi tôi thinh lặng đồng lơa, tôi đều góp phần tích cực của ḿnh, để nuôi dưỡng những tṛ chơi quyền lực, trong những xă hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần ḿnh, khi có một « con sâu đang đục khoét », trong ḷng xă hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đă làm ǵ trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như bao nhiêu người khác...Chính v́ những lư do đó, thay v́ phê phán, tố cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hăy bắt đầu nh́n ḿnh : tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác. Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần cho. Và đồng thời, chúng ta cũng đang nhận lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban phát một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi và giá trị tự tại của ḿnh. Khi cho, chúng ta nhận ḿnh là người truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm người. Khi xin, chúng ta ư thức ḿnh luôn luôn « làm đứa con » trong ḷng Trời Đất, không đ̣i hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nh́n nhận ḿnh đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác, chiếm hữu, kiểm soát, đút lót...

Nữ Thi sĩ Xuân Quỳnh đă nhận thức được cả ba b́nh diện Khác, Giống và Cần, trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt t́nh yêu (2):

« Từ ngày nào chẳng biết,

« Thuyền nghe lời Biển khơi.

« Cánh hải âu sóng biếc

« Đưa Thuyền đi muôn nơi.

« Ḷng Thuyền nhiều khát vọng,

« Và t́nh Biển bao la.

« Thuyền đi hoài không mỏi,

« Biển vẫn xa... c̣n xa.

(...)

« Chỉ có Thuyền mới hiểu

« Biển mênh mông nhường nào.

« Chỉ có Biển mới biết

« Thuyền đi đâu, về đâu.

« Những ngày không gặp nhau,

« Ḷng Thuyền đau rạn vỡ.

« Nếu từ giả Thuyền rồi,

« Biển chỉ c̣n sóng gió. »

Xuyên qua hai h́nh tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đă gọi mời chúng ta cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp tinh tuyền, nguyên khởi của nó : NHẬN mà không cần xin nài, than vản. CHO mà không đ̣i hỏi ḷng biết ơn nơi kẻ khác. Phải chăng đó là cốt tủy của t́nh mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ?

Phải chăng người mẹ, khi nuôi con và dạy con, đang làm Siêu Ngă cho đứa con của ḿnh. Làm Siêu Ngă có nghĩa là Đang ở trên, để có một lối nh́n bao quát và toàn diện, không quên sót điều ǵ. Đang ở trên, để có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của ḿnh, về tất cả những ǵ mà đứa con của ḿnh đang cần. Đang ở trên, như con gà mẹ ấp ủ bầy con, dưới đôi cánh của ḿnh, một đàng để tạo lại hơi ấm của bào thai. Đàng khác, để đứa con cảm thấy ḿnh an toàn, trước mọi hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.

Người mẹ ở trên, làm Siêu Ngă. Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế và ép buộc.

Người mẹ ở trên. Nhưng « ở trên » để có thể « ở với », đồng hành và chia sẻ.

Người mẹ ở trên, nhưng đồng thời cũng « ở trong », đặt ḿnh vào vị trí của đứa con, để hiểu nó, như chính nó hiểu ḿnh. Vui với con, Cười với con. Bi bô với con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ đi theo ḿnh, tiến vào với ḿnh trên những con đường lạ lùng của giấc ngủ.

Và khi đứa con thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, h́nh ảnh đầu tiên xuất hiện trước mặt nó, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. H́nh ảnh khách quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui sướng : Mẹ có mặt, để đón nhận ḿnh.

Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối tượng, có khả năng thỏa măn ước mơ của ḿnh. Chính khi đó, h́nh ảnh người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với h́nh ảnh mà đứa con đang ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy ḷng tự tin, cảm thấy ḿnh có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và tầm ước mong của ḿnh. Cốt lơi của Bản Ngă nằm ở trong ư thức về khả năng nầy. Và cốt lơi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngă của đứa bé sẽ xuất hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngă, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con.

Quan hệ Mẹ Con, trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm người, theo tinh thần và lăng kính ây, bao gồm ba chiều hướng :

-         Thứ nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ họ.

-         Thứ hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị, tầm thường, thành một tác phẩm đầy ư vị và lạ thường, với hai bàn tay đóng góp của tôi.

-         Thứ ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo », cho tôi nằm.

Với  lối nói riêng bịệt của ḿnh, tác giả Stephen R. COVEY (3), cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người :

-         Điểm một : Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để t́m hiểu họ, thay v́ đợi chờ người khác phải hiểu ḿnh,

-         Điểm hai : Khi tiếp xúc, mục tiêu cần nhắm tới, là « Người thắng, tôi thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ». Thắng trong tinh thần của tác giả, có nghĩa là thành đạt mọi chiều kích làm người.

-         Điểm ba : Trong mọi quan hệ hài ḥa, xây dựng và tích cực, người và tôi « tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người. Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu lo, với thái độ « vùi đầu vào ḷng mẹ », để thỏ thẻ : « Mẹ ơi, con thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những ǵ bà đang cần, để ngày ngày làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. COVEY đă xử dụng một từ thời trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing, h́nh thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy, Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành ḥn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang được nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu. Từ Ergizing c̣n có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra - synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau. Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc, một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có  với nhau « một trăm đôi tai ».

Khi nói đến « NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét vừa được nêu ra trên đây, chúng ta đă nói đến « một TIẾN TR̀NH làm người ». Trên con đường ấy, không ai làm ông chủ. Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài. Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ. Trái lại, ai ai cũng được kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung ḷng của ḿnh.

Đàng khác, khi nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ thể. Trong công việc, chúng ta phải biết thương lượng. Khởi điểm là những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên giải, t́m ra ư nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi.  Nhưng tận điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ư với nhau, hay là một số giá trị cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức có hai ư nghĩa : Vừa là Aùnh Sáng, vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là T́nh thương.

II-  Người và Việc không được trộn lẫn vào nhau

Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều kiện hiện tại, họ và chúng ta  đang có những sở thích, nhu cầu và giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường t́nh, tất yếu. Cho nên, khi họ và chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường cần chọn lựa và dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều được coi trọng một cách đồng đều và công minh.

Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ nào.

V́ thiếu lối nh́n đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của ḿnh, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác.

Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề cao câu tục ngữ : « Một sự nhịn, chín sự lành ».

Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ : « Mày dại khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ».

Rốt cuộc, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ có thể trầm ḿnh trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất ngủ, khó tiêu hóa...Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng tâm thần ấy là v́ nhu cầu cơ bản của họ không được nh́n nhận, tôn trọng, thỏa măn và đáp ứng.

Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng : Để có một quan hệ hài ḥa với một người, chúng ta PHẢI đồng ư với người ấy, trong tất cả mọi vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy.

Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng của Ư Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đă ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong  nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị khống chế : Chúng ta chưa « biết ḿnh là ai », chưa trở thành Bản Ngả có ư thức nhạy bén và sáng suốt.

Cho nên, khi nói đến Bản Ngă, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng : đó là một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngă là một tiến tŕnh « vừa có vừa không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngă là một hiện thực rất phức tạp.

Khi nh́n lại cuộc đời của ḿnh, chẳng hạn, tôi nhận thấy tôi đă vi phạm nhiều lỗi lầm. Những ư định đă có mặt trong nội tâm của tôi, không phải luôn luôn là những ư định trung trực. Thêm vào đó, trong lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đă góp phần, tạo nên nhiều vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng liêu.

Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy ḿnh là con người có giá trị. Ngày hôm nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên b́nh diện khả năng chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát triển, tôi đă tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đă giao phó cho tôi. Trên b́nh diện lư tưởng, tôi đă kinh qua những chặng đường « ba ch́m bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước đường làm người.

Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số điểm rất quan trọng sau đây :

-         Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên t́nh người, t́nh đồng bào, t́nh nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua những t́nh huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe đang có những quyền lợi khác biệt nhau.

-         Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lănh vực « Người và Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của ḿnh,  chỉ v́ để duy tŕ một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung sống.

-         Chúng ta cũng đừng lừa gạt ḿnh, khi nêu ra lư do « Bản sắc, Bản Ngă », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngă là một con đường hay là một tiến tŕnh cần xây dựng và phát huy cũng như đổi mới, từng ngày. Bản Ngă không bao giờ là một tận điểm bất di bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, t́m cách thăng tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi lên, trên con đường thành người.

Nói tóm lại, trong cả hai lănh vực Người và Việc, một đàng chúng ta cần ư thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của ḿnh. Đàng khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác, chúng ta c̣n có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa măn nhu cầu làm người của ḿnh.

Nhu cầu thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rơ hơn, bốn thành tố  Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với nhau. Khi xây dựng quan hệ hài ḥa cũng như khi thương lượng, chúng ta cần phải ư thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.

Ư thức như vậy có nghĩa là xác định, bằng cách gọi ra ánh sáng, kêu tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, t́m phương tiện đáp ứng và thỏa măn, bốn loại thực tế sau đây :

-         Người và Tôi cần ǵ ? (nhu cầu),

-         Người và Tôi cảm thế nào ? (xúc động),

-         Người và Tôi muốn ǵ ? (yêu cầu hay là ước vọng),

-         Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ? (giới hạn hay là ngưỡng khổ đau).

Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ư thức về bốn thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân ḿnh, chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngă. Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác làm người với chúng ta, như chúng ta.

III.- Xây dựng Quan Hệ một cách « vô điều kiện »

Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng ta nhắm tới là lắng nghe, t́m hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Chúng ta không nuôi ẵm ư đồ thay đổi kẻ khác, t́m cách lèo lái hay là ép buộc họ nhận làm của ḿnh những quan điểm chủ quan của chúng ta. Tiến tŕnh xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan nầy, người khác tôn trọng và thỏa măn quyền lợi của tôi, cũng như tôi tôn trọng và thỏa măn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và t́nh người của kẻ khác. Không v́ một lư do nào, tôi giành độc quyền làm người cho tôi và hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không thể nhân danh bất kỳ một lư tưởng cao cả nào, để truất phế quyền lợi và giá trị làm người của kẻ khác.

Tôi sống và làm như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng những quan hệ hài ḥa và tôn trọng , đối với kẻ khác, mặc dù họ không đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của ḿnh.

Trong tinh thần và lăng kính ấy, những nhận xét sau đây sẽ giúp chúng ta xác định một cách cụ thể và rơ ràng những tác động, cần được thực hiện, trên tiến tŕnh xây dựng quan hệ giữa người với người. Trên con đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một ḿnh. Nhiều tác giả có tầm cỡ quốc tế như R. FISHER, D. STONE, Stephen R. COVEY, Marshall B. ROSENBERG, Gerald JAMPOLSKY...(4), và nhất là NGUYỄN TRĂI, trong ḷng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi tiến tới, mặc dù con đường c̣n hiểm trở, đầy chông gai.

Theo lối nh́n của tác giả Roger FISHER, tiến tŕnh xây dựng quan hệ tích cực và hài ḥa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây (5):

-         Bước thứ nhất : Vừa t́nh vừa lư,

-         Bước thứ hai : Lắng nghe và hiểu biết,

-         Bước thứ ba : Diễn tả, thông đạt một cách rơ ràng trực tiếp, không úp mở, ngụy trang,

-         Bước thứ bốn : Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ khác,

-         Bước thứ năm : Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay v́ đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ư, kư tên,

-         Bước thứ sáu : Nh́n nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác, bất kể họ là ai.

III. 1  Bước thứ nhất : Coi trọng Lư và lắng nghe T́nh

Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, T́nh và Lư là hai tiếng nói cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều. Lư nằm trong địa hạt tư duy, suy nghĩ, lư luận, lối nh́n hay là thuyên giải. Khi lư không được phát huy và coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không biết ḿnh đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi theo thứ tự nào...Lư là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh.

Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lư, trong 4 địa hạt khác nhau :

-         Địa hạt thứ nhất : khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp, bằng cách trả lời những câu hỏi : điều ǵ, thế nào, tại sao, với ai, ở đâu...

-         Địa hạt thứ hai : xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đă gây ra cho chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá khứ, để khảo sát khía cạnh nầy.

-         Đia hạt thứ ba : khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để t́m ra những chân trời rộng mở, những phương thức giải quyết.

-         Địa hạt thứ bốn : những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương tŕnh hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta không thúc ép hoặc cưỡng bức chính ḿnh. Không đứng núi nầy trông núi nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí. Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ.

Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lựơng có tính khoa học, chúng ta cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt như vậy.

-         Giai đoạn Một : Liệt kê những vấn đề của cả hai bên.

-         Giai đoạn Hai : Xác định những quyền lợi hay là lợi ích, mà mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết (interests).

-         Giai đoạn Ba : Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa măn từng quyền lợi của mỗi bên (options).

-         Giai đoạn Bốn : Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lư, hợp pháp của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận (criteria).

-         Giai đoạn Năm : Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ư (agreements).

-         Giai đoạn Sáu : Đề xuất một lối thoát « tôn trọng t́nh người và tính người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives).

Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lư ấy, chúng ta không thể không ngồi lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương ḷng rướm máu » của nhau. Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố « T́nh », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không c̣n là con người. Và khi không cưu mang chất người trong ḷng ḿnh, làm sao chúng ta có thể thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lư của kẻ mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết chốc và lầm than...Không biết lắng nghe, nh́n nhận, t́m hiểu, tôn trọng tâm t́nh của kẻ khác, phải chăng chúng ta đang ư thức ḿnh là NGƯỜI ?. Hẳn thực, duy những ai đă bị khổ đau nghiền nát trong cuộc đời, mà vẫn c̣n có khả năng vùng đứng lên,  người ấy đang có một kho tàng lớn lao, trong nội tâm : « biết ĐỒNG CẢM » với ḿnh và với người khác. Với một tấm ḷng « đầy Hiểu Biết và T́nh Thương » nầy, chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRĂI :

« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,

« Vun trồng CÂY ĐỨC, nuôi con ăn. »

III.2  Bước thứ hai : T́m hiểu kẻ khá

T́m hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như : lắng nghe lời nói của kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta khung qui chiếu của họ.

Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của ḿnh, mặc dù bộ sườn hướng dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố :

 -   Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận những tin tức do môi trường cung ứng,

-         Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến tŕnh tư duy ». Ở đây, những động tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở thích và thói quen của mỗi tác giả : Nhận thức, lối nh́n, quan diểm chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế nh́n đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đă khác nhau. Huống hồ khi đi vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người th́ có bấy nhiêu ư kiến. Người xưa đă có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ». Một trăm người có mặt, sẽ tŕnh bày một trăm cách thấy khác nhau.

-         Thành tố thứ ba là những t́nh trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc động. Và trong lănh vực nầy, như trên đây tôi đă nói tới, chúng ta cần phân biệt : nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều danh hiệu khác nhau.

-         Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi.

Khi lắng nghe và t́m hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong ḷng cuộc đời là « biết ḿnh và nhận ḿnh đă SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, v́ « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cơi ḷng của mỗi người. Với tư duy độc lộ, chúng ta chỉ thấy  một con đường duy nhất : tôi đúng, kẻ khác sai. Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho ḿnh và coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.

III. 3   Bước thứ ba : Diễn tả ḿnh và thông đạt một cách trong sáng

Trong bốn ngh́n năm văn hiến, chúng ta đă phải trải qua « Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, v́ lư do sống c̣n và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đă tạo cho ḿnh một thói quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của chúng ta cũng có nhiều nghĩa : « đồng ư » và « không đồng ư ». Một cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải hiểu rằng : Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm, tôi vẫn c̣n có lư do, để tự biện minh.

Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều Đại phồn thịnh là Lư, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô ngôn », và khinh thường lời lẽ dài ḍng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ư », đưa tay « chỉ mặt trăng »,  và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với hai tay chứng nghiệm.

Ngoài ra, v́ đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lănh thổ lớn lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn đương đầu, trực diện, nh́n thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu ḿnh lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những ǵ không biết lẩn tránh ra hai bên.

Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện chọn lựa đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng : không có một phương tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta.

Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng c̣n ở trong một t́nh thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt ḿnh trong điều kiện khẩn trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một ḿnh, không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của t́nh trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ư và phản hồi ».

Tệ hại hơn nữa là sau bao nhiêu năm ḥa b́nh, chúng ta vẫn c̣n giữ lại thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra. Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu chúng ta muốn nói ǵ. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị chúng ta gắn vào một nhăn hiệu là « kém thông minh, không bén nhạy... », hay là « có ư đồ phản động, chống đối... »

Tôi cố t́nh phân tích một cách cặn kẻ như vậy, nhằm gây ư thức rằng : làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi ḷng mẹ.

-         Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.

-         Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác diễn tả, chia sẻû con người đích thực của ḿnh.

-         Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của ḿnh. Hẳn thực, không ư thức về ḿnh, không cưu mang trong ḿnh một mục đích, một chí hướng rơ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói phải chăng là diễn tả và chia sẻ chính ḿnh ?

Tất cả những ǵ tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những ǵ tôi ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác, nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hăy có gan nói về ḿnh, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đă thấy. Chính tôi đă nghe. Chính tôi đă cảm. Chính tôi đă có kinh nghiệm. Chính tôi đă CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt, những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ.

Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng hiến một tấm tấm ḷng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại, đúng như NGUYỄN TRĂI đă nói, cách đây hơn năm thế kỷ :

« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ.

« Suốt đời ôm măi nỗi lo dân ».

III.4  Bước thứ tư : Khả tín và tin vào người

Trong đọan nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều : Thứ nhất là sống làm sao, để xứng đáng với ḷng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa, những lư chứng của ḷng tin.

Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể tŕnh bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài điểm the chốt như sau :

-         Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rơ ràng. Ví dụ,ï khi tôi hẹn với ai sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẫn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường... Phương pháp « năm ngón tay » của A . ROBBINS, mà tôi đă giới thiệu trong nhiều cuốn sách, có thể giúp mỗi người phát huy ngôn ngữ chính xác, nhằm tạo ḷng tin nơi kẻ khác.

-         Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lư. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những b́nh diện khác nhau như vậy, trên tiến tŕnh tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất ḷng tin của những ai nghe chúng ta.

-         Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu...Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối, thiếu tinh thần trách nhiệm.

Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.

 

Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào.

Trên b́nh diện nầy, người chủ động vẫn là chúng ta.

-         Khi lời nói của kẻ khác không rơ ràng, chúng ta hăy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết bạn hay bị cản trở, v́ công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ?

-         Trường hợp kẻ khác đă lỗi hẹn, chưa hẳn v́ họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ư. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ư muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên pḥng. Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngă, găy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đă lỗi hẹn với chúng ta.

-         Nếu kẻ khác, v́ nhiều lư do, không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn v́ họ xấu về mặt luân lư hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ư chí và trí nhớ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.

Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lănh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, t́m hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đă thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, v́ họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ hơn là bị loại trừ, để dần dần có khả năng trở nên khả tín, đối với những người khác.

III. 5  Bước thứ năm : Thương lượng và thuyết phục, thay v́ cưỡng chế

Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRĂI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng c̣n cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đă xác  định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :

« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,

« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »

Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang c̣n thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang c̣n làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đă có nhận xét, cách đây hơn hai ngh́n năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay v́ cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, nếu kẻ khác không đồng ư với chúng ta.

Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta. Trái lại, chúng ta coi trọng những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của người khác, ở phía đối diện.

Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang hàng chúng ta.

Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lư, hợp pháp và hợp t́nh, được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia.

Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với ḿnh, giống như ḿnh. Và như trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành », tôi đă nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau, họ có « một trăm con mắt », để nh́n. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh chị em, đối với nhau.

 

III. 6  Bước thứ sáu : Nh́n nhận và Chấp nhận nhau

 

Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận tư cách làm người của nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ t́nh người ? Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau ?

Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây :

-         Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn ḿnh tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.

-         Thứ hai, con người ấy đă trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta t́m hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.

-         Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy ḷng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời, với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.

-         Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy ḿnh rơ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.

-         Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm ǵ, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, về một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của ḿnh.

Trong Sa Mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm  một ḿnh giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và ḷng biết ơn. Aùnh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đă chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.

                                                              Lausanne, Mùa Vu Lan 2003

 

Xem tài liệu tham khảo :

1.      J.J. CRÈVECOEUR - Relations et jeux de pouvoir - Equinoxe 21, Toulouse 1999, 539 tr.

2.      100 bài thơ t́nh - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993

3.      Stephen R. COVEY - The 7 Habits of highly effective people - Simon & Schuster, London 1989, 358 tr.

4.      D. STONES - Difficult conversations - Michael Joseph, London 1999,250 tr.

5.      M.B. ROSENBERG -Nonviolent Communication -PuddleDancer Press, CA 2001, 204 tr.

6.      Roger FISHER  -  Getting together - Business Books, London 1989, 213tr.

7.      Roger FISHER   -  Getting to Yes  -  Penguin Books, N.Y. 1981, 1991, 200 tr.

8.      Roger FISHER -  Beyond Machiavelli : Tools for coping with conflict  -  Harvard University Press, London 1994, 151 tr.

 

ASSOCIATION  CONVERGENCE

NGUYEN - TRUONG - TO  CENTRE

13g,rue de L'iLL  F-67116 Reichstett, France

E-mail : dinhhuong@aol.com     trucdang@evc.net

Website Réalisé par Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ