Trong tháng hai, năm nay, nhân đọc
một bài viết của bà Phạm thị Hoài nhan đề ''Tư cách của trí thức Việt Nam'',
tôi có đóng góp một bài bình luận liên hệ đến ba loại trí thức Việt Nam
qua ba giai đoạn quốc sử của dân tộcẠ. Ngoài ra bà Phạm Thị Hoài(PTH) còn
phê phán văn học Việt Nam qua hai thế kỷ 15, 16, rồi ''tản mạn'' về ''văn
chương hạ giới'' của người Việt hải ngoại, bà nói:
'' Chẳng lẽ văn chương Việt Nam cả một thế kỷ 15 chỉ được một ông Nguyễn
Trãi, cả một thế kỷ 16 hầu như cũng toàn nhạt nhẽo và trung bình cả thì
cũng tại cộng sản hay sao? Một trong những nhà phê bình văn học sắc sảo nhất
của Việt Nam tại hải ngoại, anh Nguyễn Hưng Quốc có một nhận xét rất khổ
tâm là văn học Việt Nam ở hải ngoại tồn tại ở các chế độ dân chủ, tự do,
hoàn toàn không phải dính líu đến hệ lý luận mác xít, hệ kiểm duyệt cộng
sản, hoàn toàn không liên quan đến bộ máy tuyên truyền chính trị chính
thống, nhưng cái văn học ấy cũng không khá gì hơn, cũng trì trệ, lạc hậu,
bảo thủ và tẻ nhạt. Tất nhiên là tẻ nhạt theo một kiểu khác. Vậy lời đáp
nằm ở đâu?''Ạ
Về lời xác quyết của bà PTH liên hệ đến văn chương Việt Nam qua hai thế kỷ
15, 16, tôi chỉ xin bàn sơ lược vì đã có nhiều nhà văn từ trước đến giờ đã
chịu khó nhìn xa, nhìn sâu, và nhìn rộng hơn tôi để bảo vệ và thuyết minh
cho hai thế kỷ đó. Mục đích chính yếu bài viết này là nhằm nhận định về
lời phê phán của G.S. Nguyễn Hưng Quốc (NHQ) qua lời trích dẫn của bà
PTH.Tuy trót 35 năm chu du nước ngoài, đã từng đóng vai ''con chuột nhắt
thư viện'', thế mà đến bây giờ tôi mới nghe nói tới nhà phê bình văn học
sắc sảo nhất của Việt Nam tại hải ngoại, ông Nguyễn Hưng Quốc. Đấy là một
thiếu sót rất đáng trách.
Để bình luận về hai lời phê bình trên đây tôi thiết tưởng chỉ cần trả lời
ba câu hỏi: Thế nào là phê bình văn học? Ai là người phê bình văn học sắc
sảo nhất? Ai có đủ tầm hiểu biết sâu rộng để lượng giá một nhà phê bình
văn học, luôn cả nền văn học Việt Nam hải ngoại? Bàn về văn học Việt Nam
hải ngoại tức cũng đồng thời chỉ 'chỗ'' nằm của lời đáp'' cho bà PTH . Đúng
hay sai là quyền thẩm định của độc giả.
Thật ra, khi đặt bút phê bình một bài viết liên hệ đến vấn đề văn học thì
dù muốn dù không tôi cũng đã làm công tác phê bình văn học. Phê bình văn
học tựu trung là đọc một cuốn sách, một bài báo, lấy bút gạch dưới những
dị điểm cần phản bác hay sửa sai, ghi chép bên lề, từ đấy viết một bài
nhận định về tác phẩm ấy. Đối tượng chính yếu của phê bình văn học không
phải là tác giả, nhưng là nội dung của bài viết liên hệ đến nhân văn mà
mình muốn góp ý.
Khái niệm về nhân vănẠ bao gồm mọi sáng tạo của trí tuệ liên hệ đến cuộc
sinh hoạt văn hóa qua các thời đại lịch sử. Chủ đích của nhân văn là thực
hiện một tác dụng văn hóa trên vạn vật, hằn vào vạn vật một dấu ấn đượm
màu sắc nhân bản mà thành quả là thiết lập một mối liên hệ mật thiết từ
giữa con người và con người đến giữa con người và vạn vật, tác thành một
vũ trụ nội tâm hòa hợp với ngoại cảnh qua mọi trạng huống của cuộc sống.
Theo định nghĩa này, những bài vịnh của hội Tao Đàn dưới thời Hồng Đức
thuộc thế kỷ 15 như các bài vịnh mười hai tháng, vịnh ngũ canh, vịnh cúc
hoa, vịnh tiều phu, vịnh ông Táo, vịnh người nghèo, vịnh con rận, con chấy
v.v. tất thảy đều có tác dụng truyền đạt một ý niệm văn hóa vào mỗi năm,
mỗi tháng, mỗi mùa, mỗi cảnh, mỗi sự việc, mỗi sự vật, khiến mọi cảnh mọi
vật trong thiên nhiên, từ cành hoa, tiên cảnh đến cục đá, con rận, đều
chuyên chở một giá trị nhân bản, cung cấp một ý nghĩa thanh cao, sâu rộng.
Nhìn dưới góc độ này để đọc các áng văn thuộc thế kỷ 15, 16, có ai còn gọi
chúng là nhạt nhẽo là trung bình không, trừ phi là những người vô tri bất
mộ, chưa bao giờ biết đến, đọc đến, hiểu đến văn học Việt Nam? Tiến sĩ G.
Zuchelli, người gốc Ý, đặt những áng văn Việt Nam thuộc thế kỷ 15 ngang
hàng với các tác phẩm Fabliaux bên Pháp cùng thời. Ông đã giành một luận
án tiến sĩ dày 479 trang để so sánh Fabliaux trong văn chương Pháp với thi
phú Việt Nam cùng thời, nhằm chứng minh giá trị trường cửu của chúng và vạch
một lộ trình đưa đến tụ điểm của hai nền văn học Á -Âu Ạ. Sang thế kỷ 16,
để mô tả tình trạng nhiễu nhương đất nước nhà văn Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
'' Thế gian biến cải vũng nên đồi,
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc còn tiền còn đệ tử,
Hết cơm hết rượu hết ông tôi''.
Bạch Vân Am thi tập.((1587)
Ai còn gọi là nhạt nhẽo một áng văn mô tả được sự đời như thế? Đến tác phẩm
Trê Cóc phác họa một bức tranh hiện thực của xã hội Việt Nam dưới thời Lê
Mạc cũng đã biểu tượng sự chớm nở một nguồn văn hóa đặc thù của dân tộc
Lạc Việt. Nhìn dưới khía cạnh văn học đối chiếu, giòng tư tưởng Việt Nam
qua các thế kỷ 15, 16, cùng thời với giòng tư tưởng của các văn hào Pháp
đã khơi mào một luồng tư tưởng đượm mầu sắc nhân bản cho các thế hệ kế tiếp
và sẽ phát triển không ngừng cho đến năm 1945 thì bị khựng lại vì đã phải
đối đầu ăn thua mất còn với học thuyết duy vật Mác - Lê. Vậy '' văn chương
Việt Nam cả một thế kỷ 15 chỉ được một ông Nguyễn Trãi, cả một thế kỷ 16
hầu như cũng toàn nhạt nhẽo và trung bình cả'' thì ''lời đáp nằm ở đâu?''
Thưa lời đáp nằm ở các năm từ 1945 đến bây giờ tại Việt Nam! Quả vậy, vào
năm 1945, với cuộc cách mạng Mác - Lê, đã xải ra các vụ Trăm Hoa Đua Nở, đốt
sách, tru diệt trí thức(1956-58): một nền văn học phi nhân bản đã được áp
đặt trên miền Bắc Việt Nam. Rồi từ năm 1975, một tai biến văn học khác tại
miền Nam đã giáng một đòn trí mạng vào những gì còn lại trong gia tài văn
hóa cổ truyền: những tài liệu văn hóa và văn học tại các thư viện công lập
và tư nhân miền Nam đều bị tru diệt dưới bàn tay của đám công an văn hóa
đần độn - chẳng khác gì bọn đồ tể thời Tần Thủy Hoàng. Từ đấy nguồn văn
học phi nhân bản ngoại lai ấy đã bao sân trên toàn vẹn lãnh thổ. Ngay các
nhà văn tiếng tăm như Xuân Diệu, Huy Cận, cũng đã bị lột hết bản chất nhân
bản của mình để sáng tác theo chỉ thị, chịu sự khiên cưỡng, chi phối hà khắc
của Đảng. Tư tưởng duy vật phi nhân bản toàn trị được hệ thống hóa, chính
trị hóa, rồi được ''nhân bản'' lên hàng triệu tập, phân phát đến tận hang
cùng ngõ hẻm. Các thế hệ từ 1945 kế tiếp đã bị ''i-tờ hóa'' với hai lá chắn
trước mắt để chỉ nhìn được vào phía các bài viết của cụ Mác, bác Hồ và đồ
đệ, ngoài ra không còn biết được một cái gì khác nữaẠ. Đấy là chỗ nằm của
sự trì trệ, lạc hậu, bảo thủ và tẻ nhạt của nền văn học trong nước.
Việc suy tôn Bác và Đảng qua bao thế hệ đã gây tác dụng nhào nặn não trạng
người Việt Nam, cái não trạng ''nhất - không'', 1 - 0 theo thuật ngữ điện
toán(mentalité binaire). Bác và Đảng là độc nhất vô nhị. Tuy nay đã trở
thành con số không trong niềm tin của quần chúng nhưng khối óc của một số
đông người Việt Nam, cho dù đã thoát ra được nước ngoài, vẫn còn bị hằn
cái quán tính 1 - 0 đó, không tài nào tẩy gọt nổi. Não trạng này đã làm tê
liệt, bế tắc mọi tiến hóa trong luồng tư tưởng, khiến lý luận trở nên quá
dễ dàng với những mô hình quá đơn giản. Không lạ gì '' văn chương Việt Nam
cả một thế kỷ 15 chỉ có được một ông Nguyễn Trãi! Khốn khổ thay cho nền
văn học Việt Nam! Tại trong nước chỉ có ông Tố Hữu cùng cơ quan kiểm soát
tư tưởng giữ độc quyền chê khen, và chọn lọc mọi sáng tác!
Thế còn tại hải ngoại thì sao? Trên địa bàn tự do tư tưởng này có bao
nhiêu cách, có bao nhiêu khía cạnh để phê bình một nhà văn? Lấy tiêu chuẩn
nào để chọn lựa những nhà phê bình văn học sắc sảo nhất? Có bao nhiêu nhà
phê bình văn học chịu đứng dưới một quan điểm với nhà văn đối tượng của
phê bình? Từng ấy câu hỏi cũng đã cho thấy rằng vấn đề phê bình văn học
tại hải ngoại thật không đơn giản: nhà phê bình sắc sảo nhất đối với nhà
văn này lại có thể là tồi tệ nhất đối với nhà văn nọ. Ông A đối với tôi là
nhà phê bình sắc sảo nhất vì ổng tán thành quan điểm của tôi, vì đã khen
lời văn tôi viết; còn ông B là người phê bình tồi tệ nhất vì chẳng biết gì
mà dám phê bình tôi. Rồi cuộc sinh hoạt văn chương tại hải ngoại cứ việc
xoay vần như thế. Chung quy, tại các quốc gia văn minh, ngay trên bình
diện chuyên nghiệp, không ai là nhà phê bình sắc sảo nhất cả. Theo tiêu
chuẩn văn học tại đây, nhà phê bình văn học tiếng tăm là nhờ vô số các nhà
văn gởi tác phẩm đến xin phê bình trên báo chí, trên màn ảnh, trên Ti Vi,
nhưng đấy chỉ là sự sắc sảo trong nghề làm ăn, buôn bán, không liên hệ mảy
may gì đến văn học cả. Từ các năm 1993 đến 1996 tôi cũng đã thủ vai ''nhà
phê bình văn học'' nhân việc Trung tâm thư viện Hoa Kỳ đặt tại New York
nhờ tôi giới thiệu các sách Việt ngữ để ghi vào Thư Mục của các thư viện
Hoa Kỳ. Trong mỗi tháng tôi đã nhận biết bao nhiêu là sách các tác giả gởi
đến, rồi cũng đã mất bao nhiêu thời giờ để phê bình và chọn lựa, do đó đã
có người gọi tôi là ''nhà phê bình văn học!''. Bên Pháp, đầu thế kỷ 20 ông
Emile Faguet được kể là nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, nhưng có ai
cho ổng là nhà phê bình sắc sảo nhất đâu? Tại các xứ văn minh này không có
lối lý luận 1 hay 0 đâu! ngoại trừ trong lĩnh vực quảng cáo, chiêu hàng
thì đâu đâu cũng chỉ thấy toàn là ''number one'' cả! Bây giờ trong giới
nhà văn Pháp người ta chỉ còn biết đến ông Bernard Pivot, người chuyên môn
mở các dịp ra mắt sách trên đài truyền hình quốc gia. Nhà văn nào cũng
muốn được ông Bernard Pivot chiếu cố, vì một khi tác giả được đưa lên chương
trình Bouillon de Culture(Nước cấy vi khuẩn) của ổng thì số sách của tác
giả được bán rất chạy. Nhưng có ai bảo rằng Bernard Pivot là nhà phê bình
văn học sắc sảo nhất đâu? Ông Bernard Pivot có thể là người chuyên nghiệp
trong vụ trình bày các tác phẩm văn học, nhưng chuyện phê bình văn học lại
do các nhà văn được ông Pivot mời đến; nhà văn này đồng ý điểm này, nhà
văn kia phản bác điểm nọ, rốt cuộc, huề cả làng, và tác phẩm được bán chạy
như tôm tươi: bán chạy không phải vì đồng một quan điểm với cụ Mác, cụ
Ghen, bác Hồ, nhưng chỉ vì trên chợ trời văn hóa tự do có nhiều quan điểm
được bày biện để thiên hạ tùy thích lựa chọn mua bán. Các vụ ra mắt sách
của người Việt tại hải ngoại cũng tương tự như thế thôi. Những nhà văn tôi
mời đến trong dịp ra mắt sách của tôi, hoặc các bạn nhà văn nhờ tôi chiêu
hàng tác phẩm mới của họ đều không tiếc lời khen ngợi tôi. Lời nói không
mất tiền mua mà! Song đâu vì thế mà các đấng ấy gọi tôi là nhà phê bình
sắc sảo nhất! Vậy xin hỏi: Ai là người có tầm hiểu biết sâu rộng đủ để lượng
giá một nhà phê bình văn học, hoặc để lượng giá cả một nền văn học, như
nền văn học hải ngoại?
Trong 28 năm qua, cộng đồng người Việt hải ngoại đã thực hiện một công
trình tốt đẹp cho quê hương: một nền văn học Việt Nam hải ngoại đã thành
hình và khởi sắc, khả dĩ cứu vãn được một phần nào những mất mát về văn
hóa,văn học, văn chương ở trong nước. Vào cuối thập niên 80, vừa bước chân
đến Hoa Kỳ, tập Bút ký văn nghệ của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn dưới nhan đề
Nhìn Lại Một Thập Niên đã cho tôi một thoáng nhìn về cuộc sinh hoạt trong
giới nhà văn Việt Nam hải ngoại, những nhà văn khả kính, sáng giá hay chê
bỏ theo quan điểm của Nguyễn Ngọc Ngạn. Rồi nhân việc lãnh công tác thực
hiện Thư mục Việt ngữ cho các thư viện Hoa Kỳ do Thư Viện Trung Ương
NewYork giao phó, tôi đã có dịp truy tích một khối lượng lớn tác phẩm văn
học Việt Nam, và riêng văn học Việt Nam hải ngoại. Công việc này đã giúp
tôi gom góp khá nhiều dữ kiện để đạt một nhận xét gọi là tạm ổn về nền văn
học Việt Nam hải ngoại.
Khác với tình trạng trong nước, văn chương hải ngoại thật đúng là văn chương
tự do: tự do với tất cả những cái tốt đẹp cũng như những cái xấu xa, cái
tồi tệ của nó. Nhưng bảo là trì trệ, lạc hậu, bảo thủ và tẻ nhạt thì thật
là khó hiểu. Hai cán bộ Hoàng Ngọc Hiến, và Nguyễn Huệ Chi do trung tâm
William Joiner đài thọ để mà viết như vậy thì cũng không có gì lạ: họ đâu
có được một vốn kiến thức và văn hóa nhân bản nào làm cơ sở cho một nhận
thức đúng đắn về nền văn học tự do? Họ ra hải ngoại thừa hành một công tác
kiều vận; thêm vào đó một khuynh hướng cố chấp thì muốn phán gì chả được?
Nhưng một giáo sư đại học taị hải ngoại thì chắc ổng đã tốn công đắn đo
nhiều lắm trước khi giáng một lời phán quyết nặng nề như thế, và chắc cũng
đã thuyết minh đầy đủ trong một tác phẩm lớn mà tôi chưa được đọc, nếu đã
được xuất bản; bằng chưa xuất bản thì đây, xin Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc
vui lòng giải thích trên dư luận về lời phê phán được viện dẫn trên đây.
Đấy là một lời mời gọi của tôi, Bửu Sao, xin chuyển đến Giáo Sư.
Đã nói đến nền văn học Việt Nam hải ngoại thì cũng nên phác họa một vài
nét chấm phá, tạm đủ để chứng minh một nền văn học khả trọng. Trong công
tác chọn lựa sách báo cho các thư viện Hoa Kỳ, tôi sắp các tác phẩm văn
học Việt Nam vào ba chủng loại: nhân văn, văn hóa, và văn chương, với chủ
tâm xác định tầm mức nhu cầu học hỏi của độc giả. Những tác phẩm liên hệ
đến nhân văn như các tác phẩm tự thuật, tự truyện, hồi ký, nhất là liên hệ
đến nhân chứng vượt biên, trại tù CS, cuộc sống tỵ nạnv.v. rồi đến niên
giám, sử học, văn học sử v.v đấy là những tài liệu mà các thế hệ con em
chúng ta sẽ dựa vào để truy cứu về lịch sử văn hóa của một dân tộc. Chủng
loại thuộc về nhân văn có thể chiếm đến từ 55% đến 60% khối lượng văn học
Việt Nam hải ngoại mà tôi biết. Về khía cạnh văn hóa thì phần biên khảo(essais,
traités) liên hệ đến chính trị, kinh tế, kỹ thuật, kỹ nghệ, nghệ thuật, âm
nhạc, giáo dục, và truyền thống văn hóa xã hội Việt Nam, chung quy là mọi
tác phẩm thuộc khoa văn minh học tổng quát. Chủng loại này cũng chiến đến
từ 25% đến 30% của tổng số. Phần còn lại là 1ừ 10% đến 15% liên hệ đến mọi
tác phẩm văn chương thuần túy: thơ văn, tiểu thuyết, giả sử, và mọi tác phẩm
thuộc loại hư cấu. Chủng loại này các thư viện Hoa Kỳ không nhận, vì không
mấy độc giả tìm đến.
Đưa ra một lời phê phán về phẩm chất của nền văn học Việt Nam hải ngoại
thì chắc phải viết một cuốn sách biên khảo từ 500 đến 700 trang, một công
tác mà tôi ước mong có ngày sẽ thực hiện; nay chỉ trông vào tác phẩm của
giáo sư Nguyễn Hưng Quốc.
Để phê bình một công trình của trí tuệ chúng ta nên dựa vào nguyên tắc mà
triết gia kiêm bác học Descartes đã đề ra: ''Lương thức là cái vốn được
chia đồng đều nhất trong thiên hạ'', Le bon sens est la chose du monde la
mieux partagéeẠ. Tuy nhiên, vốn lương thức cần phải được bồi dưỡng, khai
phóng để đạt được một mức độ hoàn hảo khiến có sự sai biệt giữa những người
muốn thực hiện một công trình văn học. Mà đã phê bình thì phải thuyết minh
bằng những thí dụ, như thế không thể vơ đủa cả nắm được. Có người nói: giá
trị văn học ở chốn này chốn nọ thì ''thượng vàng hạ cám'', hay ''cá mè một
lứa cả'', hoặc ''văn chương hạ giới rẻ như bèo'' v.v. những người quen nói
như thế thường đặt mình ra bên ngoài và bên trên tất cả. Sự đời là thế. Điều
kiện phê bình văn học, phần nội dung lệ thuộc vốn học hỏi của mỗi người,
không mấy liên hệ đến bằng cấp. Nếu vốn học hỏi đã hạn hẹp, thêm thay lại
vướng vào cái não trạng cục bộ, cố chấp, thì, khắp nơi, đương sự chỉ nhìn
thấy có một tình trạng trì trệ, lạc hậu, bảo thủ và tẻ nhạt mà thôi!
Tuy nhiên, sự tẻ nhạt có thể lệ thuộc vào điều kiện quảng bá tư tưởng, nói
nôm na là vấn đề ''đầu tư văn hóa'', liên hệ đến tiền tệ, mà ở đây tiền là
tệ. Một số không ít nhà văn đang phải sống với ''tiền già'' hay với đồng
lương nhỏ bé sau không quá 20 năm làm lại cuộc đời từ con số không nơi
chốn tha phương cầu thực. Không mấy ai sống bằng ngoài bút: viết văn lắm
lúc là một sự hy sinh của bản thân trong công cuộc đấu tranh cho một chính
nghĩa, hay nhằm bảo vệ hoặc phổ cập niềm tin của mình. Nhưng cũng có trường
hợp viết văn để châm chọc thiên hạ, đưa chén đắng cho người uống nhằm giải
tỏa nỗi ấm ức trong lòng. Những điều kiện kinh tế hoặc tâm lý này có thể
chi phối chất lượng của một tác phẩm. Một Tuần báo hay Nguyệt san đứng đắn
không nhận quảng cáo và chú trọng đến chất lượng của bài viết. Những tập
san này sống nhờ sự đóng góp của độc giả. Các tác giả thường không nhận
thù lao vì có đáng là bao nhiêu! rồi lại còn phải đóng góp để nuôi sống tờ
báo nữa. Ngoài ra, muốn bài viết được ''cho đi'' trong một tập san thì chớ
gởi đến các tập san khác: đấy vốn là sự đòi hỏi của một số lớn các cơ sở
báo chí người Việt hải ngoại. Nếu tác giả nhận thù lao thì cố nhiên đấy là
một điều kiện hợp lý, bằng không thì đấy là một chuyện hàm hồ, bất công.
Mấy năm trước đây tôi có nhận thù lao $30 một trang đánh máy do một vài
tập san đài thọ để viết bài, nhưng về sau, nhận thấy rằng thu không bù chi
nên đã xé rào gởi bài đến tất cả các báo, ai muốn đăng thì cứ việc tùy
nghi.
Nếu phải tìm cho ra một ''con dê tế thần'' thì chắc phải đề cập đến một
hiện tượng đang được phổ biến rộng rãi: hiện tượng ''siêu thị văn học''
hải ngoại. Riêng trên nước Mỹ, văn học là một thị trường béo bở. Đấy là
một chướng ngại trong công cuộc phát triển nền văn học hải ngoại. Nói đến
''siêu thị văn học'' tôi muốn ám chỉ thị trường báo biếu. Báo biếu là một
hiện tượng xuất phát tại nhiều nơi trên thị trường kinh tế tự do. Tại San
Francisco, tờ Examiner đã trở thành tờ báo biếu đầu tiên tiếng Mỹ trên đất
Mỹ. Bên Pháp có tờ ''20 Minutes''. Tờ Examiner ký hợp đồng với tổ hợp San
Francisco Chronicle, tờ 20 Minutes lệ thuộc quyền quản lý của Ouest
France. Các cơ sở báo biếu này được quyền đăng lại những bài thuộc bản
quyền của các tổ hợp lớn mà họ có liên hệ hợp đồng. Trái lại, theo chổ tôi
biết, các tập báo biếu người Việt hải ngoại thì hoàn toàn tự do, hay đúng
ra, lệ thuộc khách hàng quảng cáo, do đó đang dần dần biến thành những tập
quản cáo cho các xí nghiệp, các tiệm ăn, các phòng khám bệnh, phòng luật
sư, tiệm Neo, tiệm chạp phô v.v. rồi các bài viết chỉ là một ''cớ'' để được
gọi là tập san thôi. Tập báo biếu A, đếm 164 trang mà chỉ có 45% quảng cáo,
và các bài viết không bị phân thành ba, bốn cột: đấy là một tờ báo biếu
còn thuộc hạng đứng đắn, còn có chất lượng văn học. Ngoài ra, số đông: tờ
B, 256 trang chiếm 68% quảng cáo, tờ C 248 trang, 72% quảng cáo, trong ấy
các bài viết bị phân thành ba, bốn cột, không phân biệt với tin tức, quảng
cáo. Đấy là những ''siêu thị văn học'' trong ấy văn chương và mắm muối,
vàng thau lẩn lộn, không mấy ai còn nhìn ra được các bài viết nữa. Liệu có
phải tình trạng này đã gây nên ấn tượng tẻ nhạt đối với những người chỉ
thích vạch lá tìm sâu nhằm chỉ trích, bôi bác môi trường tự do tư tưởng mà
họ đã từng một thời bị thiếu vắng chăng? |