Nếu
bạn bất chợt hỏi một người công giáo Việt Nam chữ ‘Hồi Giáo’ gợi lên
trong đầu họ h́nh ảnh ǵ, hẳn nhiều người nh́n thấy cảnh tượng những
chiếc máy bay đâm vào tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ngày 11
tháng 9, hoặc bức tranh tŕnh bày những phụ nữ trùm kín từ đầu đến
chân bên cạnh những người đàn ông râu tóc xồm xoàm trông ‘ghê ghê’làm
sao. Thế nhưng nếu bạn hỏi họ biết ǵ về tôn giáo ấy th́ họ sẽ nói rằng
đó là một đạo thờ Allah mà vị giáo chủ là Mahomet. Chấm hết.
Hẳn rất nhiều người công giáo Việt Nam sẽ ngỡ ngàng khi cái đạo ‘dễ sợ’
ấy lại có hơn một tỉ tín đồ khắp nơi trên thế giới. Họ càng ngạc nhiên
hơn nữa khi nghe người ta bảo rằng Hồi giáo có cùng một gốc với Công
giáo và xem Abraham là tổ phụ của ḿnh; hoặc khi biết rằng Hồi Giáo
xem Phúc âm là một sách mặc khải, hay kinh Coran nói nhiều về Đức
Maria hơn là Tân Ước.
Cách đây mấy tháng, đi thăm một linh mục ngoài thất tuần, tôi nghe cha
nói: “Hiện giờ tôi đang đọc kinh Coran. Thật là độc đáo và có nhiều điều
đáng suy nghĩ. Cả đời linh mục tôi không có giờ để t́m hiểu những cái
hay trong cuốn sách này”
V́ thế, để có một cái nh́n thực sự thông cảm với một tôn giáo bạn, một
tôn giáo mà Giáo Hội công giáo luôn mong muốn được đối thoại trong
t́nh anh em, thiết nghĩ nên nh́n lại một số điều căn bản về Hồi Giáo.
Nguồn gốc.
Hồi giáo bắt nguồn với Mahomet, mà trong tiếng Arập gọi là Muhammad,
có nghĩa là ‘người đáng chúc tụng’. Ngài ra đời tại Mêca (La Mecque)
năm 569. Tuy làø một người chăn chiên và một nhà buôn, ngài thường rút
vào sa mạc để suy gẫm cầu nguyện. Lúc 40 tuổi, ngày 22-12- 609, sứ
thần Gabrien hiện ra với ngài lần đầu tiên, rồi thường xuyên hơn trong
những năm sau đó. Sứ thần báo cho ngài biết rằng Allah (Thiên Chúa) đă
chọn ngài làm Sứ Giả (rasuâl) của Người giữa trần thế và đọc cho ngài
những câu đầu tiên của Kinh Coran. Mặc khải này được kéo dài trong
ṿng 23 năm. Ngài bắt đầu rao giảng tôn giáo mới của ngài là Islam (có
nghĩa là thuần phục hay phó thác vào Thiên Chúa) và thành lập một cộng
đoàn những người Muslim (người thuần phục Chúa). Tại Mêca, ngài bắt
đầu bị các nhà lănh đạo bách hại nên ngài cùng với cộng đoàn ḿnh quyết
định di cư. Đầu tiên họ đến Êthiôpia, sau đó đến ốc đảo Yathrib, và
đặt tên nơi đây là Mêđina (thành phố), sau này người Hồi Giáo gọi là
Madinat an-Nabi: Thành phố của vị Ngôn Sứ. Ngài đến Mêđina năm 622 và
lịch Hồi giáo cũng bắt đầu từ năm ấy. Tại đây, ngài tổ chức cộng đoàn
theo đúng mệnh lệnh của Thiên Chúa, được mặc khải qua kinh Coran, và
phù hợp với những lời chỉ dẫn của Sứ Giả Người. Trong thời gian ở đây
ngài phải tiến hành cuộc chiến đấu tự vệ chống lại người Qyraychites,
những lương dân không chấp nhận tôn giáo của ngài. Sau 8 năm đấu tranh,
ngài trở về Mêca năm 630, v́ giờ đây thành phố này đă chấp nhận tôn
giáo mới. Khi về đến Mêca, ngài công bố ngay ơn toàn xá, thế là ngày
hôm sau cả thành phố gia nhập Hồi Giáo. Ngày 04 tháng 06 (hoặc ngày 25
tháng 05) năm 632 ngài qua đời tại Mêđina. Đền thờ đựng lên nơi chôn
cất ngài trở thành thánh địa thứ hai sau đền Kaaba tại Mêca.
Sách thánh và sách giáo lư.
Cuốn sách thánh căn bản của Hồi giáo là kinh Coran. Coran (từ tiếng
Arập Qur’an có nghĩa là ‘bài đọc’) là một tuyển tập ghi lại những lời
mà Thiên Chúa mặc khải cho ngài Mahomet tại Mêca từ 609 đến 622, và
sau đó tại Mêđina. Sách này gồm 114 chương (surate), mỗi chương chia
thành nhiều câu (verset). Chương ngắn nhất có 3 câu, chương dài nhất
có 286 câu.
Đây là một ví dụ trích ở Surate 1 , cũng gọi là Fâtiha: “Ngợi khen
Thiên Chúa Chủ Tể mọi Thế Giới, Đấng vô cùng Nhân Hậu, Đấng rất mực
Nhân Hậu, Chúa tể trong ngày phán xét. Người là Đấng chúng con phụng
thờ, Người là Đấng chúng con van xin cứu giúp. Xin dẫn chúng con trên
đường ngay nẻo chính. Con đường của những kẻ được Người ban ân phúc.
Không phải con đường của những kẻ bị Người trút cơn thịnh nộ hoặc con
đường lầm lạc.”
Ngoài kinh Coran ra, Hồi giáo cũng công nhận những sách sau đây là
sách thánh: Sách Torah (Ngũ Kinh trong Cựu Ước), sách Thánh Vịnh và
bốn sách Phúc Âm, mặc dù họ cho rằng các sách thánh này đă bị Do Thái
giáo và Kitô giáo tam sao thất bổn qua ḍng thời gian, và không c̣n
giữ nguyên ư nghĩa ban đầu nữa.
Sách giáo lư căn bản gồm có cách sách Sunna, Chari’a và Fiqh
- Sunna: sách về truyền thống, nghĩa tiên khởi là ‘con đường’. Sách
này ghi lại những giáo huấn của Ngôn Sứ Mahomet, lời nói và hành vi
của ngài, và những ngày đầu của cộng đoàn tại Mêđina, (tương tự như
sách Phúc âm và Tông đồ Công vụ Kitô giáo). Sách này dùng làm khuôn
vàng thước ngọc cho đời sống đạo của tín đồ.
- Chari’a: Luật tôn giáo, bao gồm những qui định xuất phát từ sách
Coran và Sunna. Các qui định này đề cập đến mọi khía cạnh đời sống cá
nhân và tập thể của tín đồ Hồi giáo, và trở nên gần như một bộ luật
dân sự của mọi cộng đồng Hồi Giáo. Sách này được nối dài bằng sách
Fiqh, chỉ dẫn cách giải thích và áp dụng các qui định trong sách
Chari’a.
Tín điều.
Mahomet không tuyên bố rằng ḿnh thiết lập một tôn giáo mới, nhưng chỉ
đến phục hồi tôn giáo (= Hồi Giáo); cái tôn giáo muôn đời mà Thiên
Chúa đă từng mặc khải trước đây qua các ngôn sứ của Người, nhưng nhân
loại đă quên đi hoặc đă làm cho biến chất. Về điểm này, ngài cũng
giống như Chúa Giêsu khi Chúa tuyên bố: “Thầy đến không phải để băi bỏ
Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để băi bỏ, nhưng
là để kiện toàn” (Mt 5,17). Abraham (Ibrâhim), mà Kitô giáo tôn vinh
là ‘cha của những kẻ tin’, th́ được Hồi giáo xem là ngôn sứ hay sứ giả
hàng đầu và được gọi là hanif, có nghĩa là một tín đồ tiêu biểu của
tôn giáo tinh tuyền tiên khởi mà hiện nay Hồi giáo muốn thiết lập trở
lại. Cùng với Abraham, Hồi giáo c̣n tôn kính các ngôn sứ Adam, Nôe,
Môsê (Moussa), và nhiều ngôn sứ khác của Israen như: Davit, Salômôn,
Êlia, Êlisê, Yob, Yona... cộng với vài ngôn sứ không có trong truyền
thống Do Thái Kitô giáo như: Sâlih, Hud, Chu’aib...
Trong tương quan với Kitô giáo, th́ Hồi giáo tin như sau:
- Đức Giêsu. Con đức Maria (Issa ibn Maryam) giữ một vị trí ưu tuyển
trong hàng ngũ các ngôn sứ. Hồi giáo gọi ngài là ‘lời và thần khí của
Thiên Chúa’, nhưng không công nhận ngài là Thiên Chúa, mà chỉ xem là
‘tôi tớ’ (abd) đồng hàng với các tiên tri và sứ giả khác, nghĩa là đồng
cấp bậc với Abraham, Môsê, Êlia, Mahomet...
- Đức Maria. Kinh Coran đề cập đến Đức Maria nhiều hơn Phúc Âm. Bà là
người được Thiên Chúa tuyển chọn ‘trên hết mọi người nữ trong vũ trụ’,
và được tôn sùng như là Mẹ của mọi Kẻ Tin. Nhờ thiên sứ thổi hơi lên
Bà mà Bà được mang thai. Hồi giáo là tôn giáo duy nhất không phải là
Kitô giáo mà nh́n nhận rằng Đức Giêsu chào đời một cách mầu nhiệm từ
một người nữ đồng trinh và ngài không có cha. Đức Maria sinh con ở gốc
một cây cọ và, ngay khi vừa ra đời, Đức Giêsu đă cất tiếng nói để khẳng
định sự tinh tuyền của mẹ ḿnh. Trong kinh Coran, và trong niềm tin
Hồi Giáo, không hề có sự hiện diện của thánh Giuse.
- Mahdi. Theo kinh Coran, Đức Giêsu không bị người đời giết chết, v́
họ chỉ đóng đinh cái h́nh bóng của thân thể ngài mà thôi. Ngài được
đưa về trời, và sẽ trở lại vào ngày sau cùng. H́nh ảnh của Đấng tái
lâm thường được đồng hóa với Mahdi, là Đấng sẽ xuất hiện vào thời viên
măn để chống lại sự dữ do Dajjal (kẻ phản Kitô) chủ xướng và cầm đầu.
Một số truyền thống cho rằng chính Đức Giêsu sẽ là Mahdi. Có một câu
trong Phúc Âm gây bàn căi trong các môi trường Hồi giáo và Kitô giáo.
“Thầy sẽ phái đến cho các con đấng Yên Ủi (paraklètos)” (Ga 16,,7).
Theo các nhà chú giải Kitô giáo th́ Mahomet là Đấng được Đức Kitô phái
đến. Họ lư luận rằng paraklètos cũng gần như là periklutos (= sáng
láng); mà Mohamet hay Muhammad th́ đồng nghĩa vời Ahmad, có nghĩa là
‘Rất Sáng Láng’. Nhưng các nhà chú giải Hồi giáo cho rằng Mohamet
chính là vị Ahmad đă được ghi trong chương 61 câu 6 của Kinh Coran,
chứ không liên quan ǵ đến đấng paraklètos của Kitô giáo.
Ngoài những gương mặt lớn trong Phúc Âm Kitô giáo, kinh Coran c̣n
nhiều lần nhắc đến Gioan Tẩy giả (Yahya). Kinh Coran cũng thừa nhận rằng
tín hữu Do Thái giáo và Kitô giáo là ‘dân Kinh Thánh’ (ahl al-kitâb),
do đó họ được thông phần cứu rỗi và có một vị trí đặc biệt trong xă
hội Hồi giáo, nhưng đồng thời họ bị trách cứ là đă xa ĺa truyền thống
của ḿnh và đă làm hỏng sách thánh.
Giữ đạo
Tín đồ Hồi giáo muốn giữ đạo cho hoàn hảo th́ phải tuân giữ 5 điều
buộc, hoặc dựa vào 5 trụ cột (arkân) sau đây:
1. Tuyên xưng đức tin (chahâda): Nghĩa là đọc lời sau: “Chỉ có Thiên
Chúa là Đức Chúa duy nhất; và Mahomet là sứ giả của Người”. Câu tuyên
xưng này xác định sự khác biệt dứt khoát giữa Đấng Tuyệt Đối và mọi
cái tương đối, đồng thời giúp con người có thể qui hướng về Chúa. Mức
độ thánh thiện của tín đồ tùy thuộc vào ḷng chân thành của họ khi đọc
lời kinh này, và nhờ đó họ được hưởng thiên đàng.
2. Cầu nguyện (çâlat): Đây là cách cử hành phụng vụ duy nhất của người
Hồi Giáo. Kinh nguyện được thực hiện mỗi ngày năm lần: sáng, trưa,
chiều, tối, khuya. Đến giờ, tín đồ phải làm nghi thức tẩy uế bằng
nước, và nếu không thể có nước th́ dùng cát hoặc đá. Kế đến quay về
hướng Mêca và đọc một số kinh trích sách Coran. Trước khi đọc kinh,
nếu ở trong đền thờ, th́ người chủ sự xướng lên: “Allah là Đấng vĩ đại
nhất. Tôi tuyên xưng rằng không có Chúa nào ngoài Thiên Chúa. Tôi
tuyên xưng rằng Mahomet là sứ giả của Người. Hăy đến mà cầu nguyện.
Hăy đến hưởng ơn cứu độ. Allah là Đấng vĩ đại nhất. Tôi tuyên xưng
rằng không có Chúa nào ngoài Thiên Chúa” (Hiện nay, câu này được thu
băng và phát ra trên loa phóng thanh trước mỗi giờ kinh cho mọi người
nghe).
3. Ăn chay tháng Ramadan (tháng 9 của lịch Hồi Giáo): Trong suốt một
tháng, các tín đồ phải giữ chay như sau: từ lúc hừng sáng đến sau khi
mặt trời lặn, họ không ăn, không uống, không hút thuốc, không buông
ḿnh theo thú vui xác thịt. Trong thời gian này, nên đọc những kinh
đặc biệt và đọc toàn bộ kinh Coran. Trẻ em, người già, người bệnh, và
phụ nữ mang thai được miễn giữ chay.
4. Đóng góp theo luật (zakât): Đây là hành vi tôn giáo để biểu lộ t́nh
liên đới giữa anh chị em đồng đạo. Chỉ có công dân nào theo Hồi Giáo
mới đóng góp phần này để sử dụng làm quỹ tương trợ xă hội. Đối với
vàng bạc, hàng hoá hay tiền lời trong doanh thương th́ đóng 2.5%, nếu
sử dụng phương tiện sản xuất hay chăn nuôi th́ đóng 5%, đối với sản
phẩm nông nghiệp hay thú vật chăn nuôi th́ đóng 10%.
5. Hành hương tại thánh địa Mêca.(Hadj)
Trước khi Hồi giáo ra đời th́ đă có một truyền thuyết như sau: Đền thờ
Kaaba tại Mêca trước đây được Adam xây dựng, nhưng đă bị trận đại hồng
thủy cuốn trôi. Abraham đă xây dựng lại và Mahomet biến thành nơi thờ
phương tôn giáo độc thần tinh tuyền mà bao nhiêu thế hệ đă lăng quên.
Đền thờ này được gọi là ‘Ngôi nhà của Allah’. Viên đá đen mà sứ thần
Gabriel từng trao cho Abraham được gắn vào bức tường phía đông nam.
Trên nguyên tắc, bất cứ người Hồi Giáo nào có khả năng đều phải thực
hiện cuộc hành hương này. Cuộc hành hương Hadj biểu trưng cho hành
động trở về với trung tâm của mọi sự. Tín đồ phải đến đấy trong tinh
thần cầu nguyện và sám hối để được thứ tha và đổi mới đời sống. Khi
bắt đầu đặt chân đến Mêca, tín đồ không c̣n được cao râu, xức dầu
thơm, hay làm một hành động bạo lực nào. Những nghi lễ tại trung tâm
hành hương kéo dài 12 ngày. Sau đó người hành hương nên đi viếng thánh
địa thứ hai là đền thờ Mêđina, nơi chôn cất ngôn sứ Mahomet. Nếu có
thể được th́ c̣n đi viếng thánh địa thứ ba là Đền Thờ Giêrusalem và
sau đó đến Hêbrôn là nơi chôn cất Abraham, ‘người bạn của Thiên Chúa’
và ‘người cha của tôn giáo độc thần’.
Kitô hữu học được ǵ ở Hồi Giáo?
Khi nhận ra tín đồ Hồi giáo là anh em cùng một tổ phụ với ḿnh, người
công giáo Việt Nam thấy có nhiều điều để học hỏi nơi họ, thậm chí
nhiều hơn nơi các tôn giáo đă từng thâm nhập ít nhiều vào máu huyết
ḿnh, như Phật Giáo, Khổng Giáo và Lăo Giáo. Theo quan điểm Hồi giáo,
loài người được Thiên Chúa toàn năng ủy thác (Khalifah) để coi sóc
muôn loài thọ tạo. Họ chỉ có thể chu toàn nhiệm vụ ḿnh bằng cách tiếp
tục công tŕnh sáng tạo qua cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói và bóc
lột để xây dựng một xă hội công bằng: đấy là chiều kích giải phóng của
tôn giáo này. Quan điểm về sự Thuần Nhất (Tawhid), nghĩa là tương quan
với một Thiên Chúa duy nhất, giúp con người có được cảm thức rằng ḿnh
được b́nh đẳng và tự do.
Hồi giáo nhấn mạnh đến vai tṛ của tôn giáo trong chính trị. Dưới góc
độ Hồi giáo, tôn giáo tự bản chất phải gắn liền với xă hội và mục đích
chủ yếu là thay đổi xă hội hơn là thay đổi con người. Một người thực
sự đạo đức, nghĩa là đă từng cảm nghiệm Allah, th́ sẽ t́m cách loan
truyền sứ điệp hiệp nhất, yêu thương và công b́nh của Người. Khi một
chính thể đi ngược lại với quan điểm về xă hội của Allah, th́ tín đồ
phải phê phán và chống lại chính thể đó. Những giá trị mà Ngôn Sứ
Mahomet thiết tha nhất, đó là sự hiệp nhất với Thiên Chúa, Thánh ư
Chúa và t́nh huynh đệ giữa người và người. Tất cả những điều này thật
là gần gũi với Tin Mừng Kitô giáo.
Phải chăng Hồi Giáo yêu thích bạo lực?
Khi thoáng nh́n lại một vài điểm trong giáo lư và cách giữ đạo của Hồi
giáo, ta bỗng cảm thấy hụt hẫng v́ h́nh như những điều ấy mâu thuẫn
với những ǵ mà thế giới truyền thông đang cho chúng ta biết về Hồi
Giáo.
Jacques Rollet, một thần học gia công giáo giảng dạy tại đại học
Rouen, đă có lần viết như sau: ‘Từ ngày Mahomet xuất hiện, Hồi giáo
chỉ có biết đi chinh phục mà thôi. Chính Mahomet từng là một chiến sĩ,
một người đi chinh phục; Chúa Giêsu chưa bao giờ cầm gươm đi đánh ai.
Sự khác biệt giữa hai vị giáo chủ này là tự căn bản. Từ ngày khai
sinh, vào thế kỷ thứ VII, và chỉ trong một thời gian ngắn, vẻn vẹn hai
hay ba thế kỷ, Hồi giáo đă lan tràn khắp nơi. Chính chiến thắng quân
sự giúp người Hồi giáo thời trung cổ tin rằng tôn giáo của ḿnh là
chân lư. Và tư tưởng này ngày nay vẫn không thay đổi: Hồi giáo cho
rằng ḿnh không c̣n là Hồi giáo nếu không chiến thắng bằng quân sự. V́
thế, không ǵ có quyền cản trở bước chân của Hồi giáo”.
Thật là xót xa! Cứ đổi chữ ‘Hồi giáo’ thành ‘Công giáo’ trong ba câu
cuối ở trên đây, th́ lời buộc tội của một thần gia Công giáo đối với
Hồi giáo sẽ vừa sít với những lời mà nhiều người ở Việt Nam từng buộc
tội Công giáo.
Ta hăy đọc câu sau: “Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ trao (các dân
tộc) cho anh em và sẽ làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, cho đến khi
chúng bị tiêu diệt. Người sẽ trao các vua của chúng vào tay anh em,
anh em sẽ làm cho tên chúng biến mất không c̣n dấu vết trong thiên hạ,
và không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em, cho đến khi anh em
tiêu diệt chúng”. Lời kêu gọi diệt chủng này phải chăng rút ra từ kinh
Coran? Thưa không! Đó là một câu Kinh Thánh Kitô giáo (Đệ Nhị Luật, 7,
23-24).
Lời kêu gọi này phải chăng là nguyên do cho các cuộc Thập Tự chinh
từng xảy ra trong lịch sử, cộng với những cuộc xâm lăng thực dân của
các xă hội Kitô giáo đối với những nước Á Phi? Vô lư!... Thế th́ v́
sao những cuộc khủng bố ở Mỹ và Israen lại khiến người ta buộc tội Hồi
giáo, là tôn giáo của hơn một tỉ người?
Vâng, có những con người cực đoan... Trong xă hội nào, trong thể chế
nào, trong tôn giáo nào cũng có những kẻ cực đoan. Chẳng những họ gây
đau khổ cho người khác mà c̣n gây phiền muộn cho chính cộng đồng của
ḿnh. Và điều này đang xảy ra đối với Hồi Giáo.
Thế nhưng ngay cả đối với những người Hồi Giáo cực đoan, ta có dễ dàng
lên án họ chăng? Cụm từ ‘Hồi giáo cực đoan’ đă mang âm vang như một
tiếng chúc dữ. Thật ra Hồi giáo cực đoan là những người muốn thật sự
trở về cội nguồn (fondamentaliste - fondement), những người muốn trở
lại với giáo huấn tinh tuyền của Ngôn Sứ Mahomet; và v́ thế, họ không
chịu thỏa hiệp với bất cứ một cạm bẫy nào của thế gian mà quên đi điều
duy nhất cần thiết, đó là ‘chỉ có một ḿnh Chúa là Thiên Chúa thôi!’.
V́ niềm tin ấy, họ sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đồng loại của ḿnh,
những người đă bị cúi đầu dưới quá nhiều Chúa mới, được gói ghém trong
những chiếc áo mỹ từ: Toàn cầu hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hoá,
công b́nh, tự do, dân chủ...
Trong một thế giới mà con người mất đi mọi cột mốc để sống với chiều
kích vô biên th́ những chủ nghĩa cực đoan dễ t́m được tín đồ cho ḿnh.
Và v́ thế, ngay cả đối với những người Hồi giáo cực đoan, Đức Tin Kitô
giáo cũng đ̣i buộc ta thực sự nh́n ra nơi họ những người anh chị em
của ḿnh. |