ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC

 

PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN

 

 

CHỨNG NHÂN CỦA SỰ THẬT VÀ LẼ PHẢI

 

 

(1921-1988)

 

 

Kỷ niệm 20 năm ngày qua đời của vị Giám mục Chứng nhân

08-06-1988 ** 08-06-2008

 

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

 

 

“Đă có những Giám mục bị tù v́ bênh vực quyền lợi của Hội Thánh.

Nay có Giám mục nào bị tù v́ bênh vực quyền lợi của con người chăng?”

(Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, năm 1971)

 

*********

 

MỤC LỤC

 

    Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

 

1- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 01-04-1975

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975 trong lễ ra mắt của UB Mặt trận Dân tộc Giải phóng tp Huế.

3- Lời phát biểu ngày 28-02-1976 về vụ Vinh Sơn, xảy ra tại quận 10, Tp Sài G̣n

4- Lời phát biểu ngày 15-04-1977 nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài G̣n bị bắt tù

5- Lời phát biểu ngày 22-04-1977 tại trụ sở UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT,

6- Thư gửi Mặt trận TQVN tỉnh B́nh Trị Thiên ngày 27-10-1977 (phúc đáp Nhận định của Mặt trận TQVN Tp HCM ngày 06-08-1977).

7- Văn thư khẳng định quyền tự do điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)

8- Văn Thư khẳng định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện ngày 15-12-1979 (phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)

9- Thư gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch UBLL Công giáo toàn quốc ngày 19-10-1983.

10- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 19-03-1984

11- Kinh cầu cho Đức Giám mục Giáo phận (không ghi ngày) XXXXXX

12- Thư gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN ngày 11-04-1984.
13- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 17-10-1984

14- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 24-10-1984

15- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 10-05-1985

16- Thư gởi ban Việt ngữ đài phát thanh Vatican và Veritas ngày 20-05-1985

17- Thư Chung gởi Tổng giáo phận Huế ngày 19-10-1985

18- Thư gửi UBND dân tỉnh B́nh Trị Thiên ngày 03-07-1986 về vụ án Nữ tu Trương Thị Lư

19- Di chúc gởi Tổng giáo phận Huế ngày 08-11-1985

20- Thư gởi ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư ĐCSVN ngày 25-3-1988.

--------------------------------------------------------

21- Ḷng người ngoại đạo (Từ Tâm, 08-06-1988)

22- H́nh ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Gs Nguyễn Lư Tưởng, 08-06-1998)

23- Lời Chứng về cái chết của Đức TGM Ng. Kim Điền (Lm Tađêô Nguyễn Văn Lư, 30-01-2001)

24- “Tinh thần Philipphê” hay lời tâm sự với Đức Cố TGM (Lm Phêrô Phan Văn Lợi, 03-06-2002)

25- Vị Giám Mục uy dũng: Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền (Nguyễn An Quư, 08-06-2003)

26- Tưởng niệm Đức TGM Nguyễn Kim Điền (Ḥa Ái, 08-06-2003)

27- Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (Lê Thiên, 4-2005)

28- Con đường đối thoại của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền (Đỗ Mạnh Tri, 29-04-2005).

29- Tổng GM Nguyễn Kim Điền, một niềm tin sắt son không dời đổi (Trần Phong Vũ, 04-2005)

30- 1975-1988: Giai đoạn Đức TGM Phil. Nguyễn Kim Điền (Lm P. Phan Văn Lợi 18-07-2005)

31- Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, người Tiểu đệ khó nghèo (Thi Chương, 13-11-2005)

32- Nhớ lại lúc được tin Cố TGM Nguyễn Kim Điền chết (Nguyễn An Quư, 08-06-2006)

33- Ḷng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục Philipphê (Lm Augustinô Hồ Văn Quư, 06-2007)

34- Trên cánh đồng vàng (Hoàng Chinh Nguyên, 08-06-2008)

 

**********************

 

Lời dẫn nhập của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

 

    Thấm thoát đă 20 năm trôi qua kể từ ngày Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền từ giă thế gian để đi về cùng Thiên Chúa, từ giă Tổng giáo phận Huế thân yêu trong tư cách một chủ chăn để đi vào lịch sử Giáo hội và lịch sử Dân tộc như một chứng nhân cho sự thật và lẽ phải.

    Từ chứng, sinh chứng và tuẫn chứng của ngài đă lưu lại măi măi giữa chúng ta, đúc kết qua câu nói thời danh ngài từng phát biểu tại Thượng hội đồng Giám mục thế giới bàn về Công lư trên thế giới ngày 19-10-1971: “Jam sunt Episcopi qui incarcerantur propter defensionem jurium Ecclesiae. Eruntne incarcerati propter defensionem jurium hominum?” (Đă có những Giám mục bị tù v́ bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù v́ bênh vực quyền lợi của con người chăng?). Một câu nói mà có lần được hỏi sau năm 1975 rằng: “Đức Cha có nghĩ là sẽ có ngày chính ḿnh phải thực hiện nó không?”, th́ Ngài đă trả lời: “Nếu Chúa thương cho ḿnh phải thực hành lời đó th́ có hạnh phúc nào bằng! Xin cầu cho tôi được như vậy!” (Thư gởi đài Vatican ngày 19-03-1984). Và quả là ngài đă được như ư nguyện!

    Cái ǵ đă đưa Đức TGM Philipphê đến một số phận vừa đau thương nghiệt ngă, vừa cao cả vinh quang như thế, khác hẳn hầu hết các đồng liêu của ngài kể từ 1975 đến hôm nay?

    Đó là cả một quá tŕnh dài mà chúng ta có thể khám phá ra các giai đoạn qua các bản văn ngài để lại, kể từ Thư Chung gửi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975 đến Thư gởi Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh ngày 25-3-1988, 3 tháng trước khi ĺa đời. Khởi từ một thái độ hết sức chân thành, cởi mở, thiện chí, sẵn sàng cộng tác với chế độ mới (bằng cách thiết tha kêu gọi Linh mục, tu sĩ, giáo dân trong Giáo phận ḿnh dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi úy kỵ đối với nhà cầm quyền “cách mạng” và dấn thân để cùng nhau xây dựng lại quê hương sau những năm dài chinh chiến), Đức TGM đă dần dần chuyển qua một nỗi thất vọng năo nề và một thái độ cương quyết độc lập theo nguyên tắc Đức Gioan-Phaolô II đă mách cho (Collaborer en résistant = cộng tác trong khi đề kháng, vừa cộng tác vừa đề kháng, cộng tác bằng cách đề kháng) chỉ sau hai năm thôi, lúc CSVN đă lột mặt nạ, hiện nguyên h́nh là một chế độ toàn trị độc tài, đè bẹp tiếng nói của tôn giáo và nhất là muốn công cụ hóa các Giáo hội. Đang khi mọi người nơm nớp nhất trí, nói theo, dù một chút thắc mắc cũng không dám bày tỏ, th́ Đức TGM đă ung dung, nhẹ nhàng nêu lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải, của sự thật, của Tin Mừng. Đang khi hầu hết các đồng liêu không hay chưa thấy rơ mối nguy của một tổ chức lũng đoạn, phân hóa Giáo hội do CS dàn dựng là Ủy ban Đoàn kết Công giáo, th́ Đức TGM đă cương quyết không chấp nhận sự hiện hữu của nó trong Giáo phận ngài. Ngoài ra, ngài cũng lên tiếng khẳng định quyền độc hữu của Giáo hội trong việc tổ chức chủng viện, đào tạo chủng sinh, tấn phong và bổ nhiệm linh mục. Đây không chỉ là việc bênh vực cho quyền lợi và tự do của tôn giáo, của Giáo hội, mà c̣n là bênh vực cho quyền lợi và tự do của công dân, của con người.

    Thái độ này trước quyền lực chuyên chế đương nhiên là phải trả giá. Vị Mục tử bị tách biệt khỏi đoàn chiên. Vị Bản quyền bị ngăn cách khỏi các cộng sự. Vị Đại diện Giáo hội địa phương bị cấm cản gặp Lănh đạo Công giáo hoàn vũ. Và đ̣n thù cuối cùng là vị Chứng nhân phải bị bịt miệng vĩnh viễn trên cơi đời này bằng một cuộc thủ tiêu hèn hạ trong bệnh viện. Thế nhưng -Cộng sản không ngờ- cái chết tử đạo đó đă làm cho lời nói và cuộc sống của Đức TGM càng thêm ngời sáng, hữu hiệu, trường tồn vĩnh viễn.

    Vị Giám mục Công giáo nay vừa trở nên Chứng nhân của Thiên Chúa và Con yêu của Giáo Hội, vừa trở nên Chiến sĩ của Nhân quyền và Anh hùng của Dân tộc, những tước hiệu mà hầu hết mọi lănh đạo tinh thần đúng nghĩa trong các chế độ độc tài, nhất là độc tài CS, đều đă giành được.

    Kỷ niệm 20 năm cuộc ra đi của Đức Cha Nguyễn Kim Điền, chúng tôi muốn gởi đến Quư vị những bản văn tiêu biểu nói lên tinh thần của vị Giám mục uy dũng cũng như những bài viết của nhiều tác giả đă lột tả được tinh thần này, với ḷng mong ước tinh thần đó sẽ thấm nhập mọi tín hữu Công giáo Việt Nam hôm nay, dù thuộc đấng bậc nào, để tất cả thể hiện lời Đức Phaolô VI đă nhắn nhủ: “Làm Kitô hữu trong thời đại này (đặc biệt trong chế độ CS vô thần độc tài) mà không chịu gian khổ th́ không thể thành Kitô hữu đích thực”.

    Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền

    Tập sách được chia làm hai phần, và các bản văn được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, Pháp, đă cung cấp cho nhiều tài liệu quư giá.

 

**********************

 

 

1- Thư chung gởi Tổng Giáo phận Huế ngày 01-04-1975

 

    Kính thưa các linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em tín hữu thân mến,

    Chiến tranh đă chấm dứt trên giáo phận Huế. Đó là điều chúng ta mong ước và cầu nguyện từ 30 năm nay.

    Thời gian sống trong hăi hùng lo âu qua rồi. Thời gian đồng bào chúng ta nghi kỵ, chia rẽ, thù hận nhau, có khi đến chém giết nhau đă qua rồi. Chúng ta hăy cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân quư giá này. Chúng ta hăy ghi ân tất cả những ai đă hy sinh để có được những ngày an b́nh hiện nay. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa cho cảnh thanh b́nh nầy c̣n măi trên quê hương chúng ta !

    Giờ đây đă đến lúc chúng ta hoan hỷ sẵn sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt.

    Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác, giúp đỡ và chia sẻ cơm áo với đồng bào ; không phải chỉ chia sớt những ǵ ḿnh dư thừa, mà c̣n trao nhường những ǵ ḿnh chỉ có vừa đủ, theo tinh thần bác ái của Chúa Giêsu mà mọi người thiệ chí và mọi chính quyền trên thế giới quyết tâm thực thi mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn. “Này là lệnh truyền của Ta : các con hăy thương yêu nhau, như Ta đă yêu thương các con” (Gioan 15,12). V́ yêu chúng ta, Chúa đă chết cho chúng ta, th́ c̣n ǵ mà chúng ta không làm được để tỏ ḷng yêu mến nhau ?

    Giờ đây, chúng ta hăy khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hăi cho ai. Nhưng trái lại, phải hiểu tốt, thông cảm và nh́n nhận thiện chí của người khác, để tất cả mọi người sống thoải mái, vui tươi, hạnh phúc của những công dân trong chế độ tự do dân chủ, thịnh vượng và hoà b́nh. Lư do là v́ mọi người đều là anh em có cùng một Cha trên trời (x. Matt. 23,9).

    Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hăy sống Phúc Âm của Chúa Giêsu cho đến tận cùng : “Con người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và thí mạng sống ḿnh làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Matt. 20,28).

    Nhưng hơn hết, chúng ta phải sống đời tâm linh, đạo đức và thánh thiện để đạt tới đời sống vĩnh cửu, khi thân xác này trở về với cát bụi. Chúng ta phải cùng nhau xây dựng thế giới huynh đệ đại đồng cho hôm nay, nhưng không phải dừng lại đó, mà để nhờ đó chúng ta đạt tới đời sống huynh đệ trường cửu. Bấy giờ chúng ta mới thật là anh em của nhau không thể chia ĺa được và cùng nhau hưởng hạnh phúc bất diệt trong Thiên Chúa.

    Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban mọi phúc lành cho anh chị em.

    Huế ngày 01 tháng 04 năm 1975

    Nguyễn Kim Điền

    Tgm giáo phận Huế

 

 

2- Lời phát biểu ngày 09-04-1975

trong lễ ra mắt của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế

 

    “Ở đời này, không có ǵ quư hơn mạng sống con người, không có ǵ quư hơn độc lập tự do. Bao nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một ngày. Chiến tranh đă chấm dứt trên một phần lớn của quê hương chúng ta. Độc lập hôm nay là một sự thực cho cố đô Huế.

    C̣n tự do th́ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đă long trọng bảo đảm cho toàn thể đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.

    Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của nhân quyền được bảo đảm, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người công dân công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo.

    Như vậy, đồng bào công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xă hội đầy t́nh thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng, hoà b́nh, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.

 

3- Lời phát biểu ngày 28 tháng 02 năm 1976

về vụ Vinh Sơn, xảy ra

tại quận 10, Thành phố Sài G̣n

 

    Kính thưa Quư Vị,

    1/ Theo tin tức của báo chí và đài phát thanh trong nước cho biết về vụ VINH SƠN, xảy ra từ 19 giờ ngày 12 đến 8 giờ 30 ngày 13-02-1976, tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rất xúc động và đau xót. Không bao giờ chúng tôi chấp nhận một hành động phạm pháp như vậy.

    2/ Ngay từ đầu, Chánh quyền Cách mạng sáng suốt và tế nhị đă tách rời sự việc xảy ra này với sinh hoạt tôn giáo, tránh được những hiểu lầm và hậu quả có thể do đó mà ra. Chúng tôi chắc rằng đồng bào thân yêu cũng sáng suốt, không ai lại có thể nghĩ vụ Vinh Sơn là chủ trương của tôn giáo.

    3/ Nhân dịp này, chúng ta lại có thêm một bằng chứng hùng biện nữa cho thấy Chánh quyền Cách mạng đă sáng suốt chủ trương Chánh sách “Ḥa hợp Dân tộc” trong việc Thống nhất Nước nhà. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng đều nhận là việc thống nhất ư chí và t́nh thương giữa đồng bào với nhau là một công tác khó khăn nhưng cấp thiết mà mỗi người chúng ta phải thực thi cho kỳ được trong lúc này. Ư thức bổn phận trước mắt đó, đồng bào công giáo chúng tôi quyết tâm thực hiện tốt Chánh sách “Ḥa hợp Dân tộc” của Chánh quyền Cách mạng, chính ḿnh thực thi và động viên mọi người cùng thực thi t́nh ĐẠI ĐOÀN KẾT, để chóng hoàn thành Thống nhất Tổ quốc về mọi mặt, nhất là về mặt nhân tâm.

    4/ Sau cùng, chúng tôi minh xác lại lập trường của đồng bào công giáo Thừa Thiên-Huế-Quảng Trị chúng tôi là luôn luôn nỗ lực tối đa để phục vụ Tổ quốc và Thiên Chúa, bằng làm thật tốt bổn phận công dân yêu Nước và bổn phận công giáo phượng thờ Thiên Chúa. Hai bổn phận này, đối với chúng tôi, vẫn là một không thể tách rời nhau, như không thể tách rời xác với hồn của một con người vậy.

    Chúng tôi xin hết lời và cảm ơn Quư vị.

    Huế, ngày 28 tháng 02 năm 1976

    T.M. Đồng bào Công giáo

    Thừa Thiên - Huế - Quảng Trị

    ? Ph. Nguyễn Kim Điền

    Tổng Giám mục

 

    (Phát biểu trong buổi họp mở rộng gồm các Vị Đại diện Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Thừa Thiên-Huế, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, các đoàn thể quần chúng, các Giáo hội Phật giáo, Tin lành, Cao đài và Công giáo Thừa Thiên-Huế, tại Trụ sở UB MTDTGP thành phố Huế, chiều ngày 28-02-1976).

 

4- Lời phát biểu ngày 15 tháng 04 năm 1977

nhân vụ 6 vị sư PGVNTN tại Sài G̣n bị bắt tù

 

    Kính thưa đoàn chủ tịch

    Kính thưa các vị đại biểu,

    Tôi mới nghe biết vụ này qua Thông báo của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và sự tŕnh bày của ông ủy viên Mặt trận Tổ quốc (VN) tỉnh vừa rồi thôi. Tôi cũng vừa nghe ông Trần Văn Long phát biểu và đề nghị phải có biện pháp mạnh cho vụ xảy ra đó và phải phổ biến sâu rộng; đang khi Thượng tọa Thích Thanh Trí th́ xin Chính quyền khoan hồng cho Tội nhân và nghĩ rằng phổ biến vụ này phổ biến vụ này như hôm nay đây có đầy đủ đại diện các giới đủ rồi.

    Phần tôi không có ư kiến. Xét xử là việc của chính quyền, xin để chính quyền định liệu.

    Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn. V́ chính tôi đă trải qua cái cảnh tượng như vậy trong vụ Vinh sơn. Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó liên can đến người cùng tôn giáo với ḿnh. Biết ăn nói làm sao đây! Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!

    Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể c̣n sẽ xảy ra, nếu không trừ tận gốc. Theo thiển ư của tôi, nếu c̣n tựa vào tôn giáo để xách động này khác, là v́ chưa có tự do tín ngưỡng thực sự đó thôi. Thực sự, tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng.

    Chính quyền nhiều lần tỏ ư muốn là nếu có chi không thỏa măn th́ nên nói ngay với cơ quan trách nhiệm, thay v́ tung tin trong quần chúng hoặc rỉ tai này nọ, th́ hôm nay, hết sức chân thành, tôi xin nói lên điều này với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thành. Mong đừng ai nghĩ như vậy là phản động. Thú thật, nghe hai tiếng “phản động” tôi ớn lắm, và cũng không biết ngày nào ḿnh phải mang hai tiếng ấy. Tôi muốn 2 điều thôi: là tự do tín ngưỡng và b́nh đẳng trong quyền công dân.

 

* * *

 

    Hồ chủ tịch đă nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói ấy rất chí lí, rất sáng suốt.

    Tuy nhiên, đoàn kết trên cơ sở nào đây ? (ngừng giây lát) và đoàn kết bằng những nhân tố nào? (ngừng giây lát). Theo tôi nghĩ th́ chắc chắn phải đoàn kết trên cơ sở T̀NH DÂN TỘC, và bằng những nhân tố: biết, hiểu để thông cảm nhau, th́ mới có đoàn kết.

    Biết, có nhiều cách biết. Biết khách quan hoặc biết chủ quan. Biết chủ quan th́ chắc chắn là không khoa học và cũng không thông cảm nhau được. Thú thực, chắc tôi không dám tŕnh bày về các tôn giáo bạn, về giáo lí, v́ tôi sẽ nói không đúng, tôi càng không dám nói về Đảng hơn nữa, v́ chỉ có Đảng viên họa may mới nói đúng về đảng của ḿnh. Bằng chứng là ở trong nhiều cuộc họp hay học tập, tôi nghe nói về Đạo Công giáo mà không đúng ǵ cả, gán cho những ư nghĩa hay mục đích mà từ trước tới giờ, tôi chưa bao giờ nghe dạy trong đạo Công giáo. Do đó, phải biết và biết đúng, biết khách quan. Mà chỉ có người trong cuộc mới nói đúng việc của ḿnh. Vậy tôi xin nói lên ư nghĩ của Công giáo về 2 điều trên

 

    Thứ nhất: Về Tự do tín ngưỡng

 

    Thú thật, sau ngày giải phóng, khi nghe Nhà nước có chính sách Tự do tín ngưỡng, là tôi hết sức mầng, hết sức phấn khởi, như những lời phát biểu đầu tiên của tôi. Nhưng 2 năm qua rồi, tôi cảm thấy không thoải mái, v́ chưa có tự do tín ngưỡng thực sự.

    Các nghi lễ bị hạn chế, các linh mục không được đi lại phục vụ đồng bào Công giáo, như ở vùng kinh tế mới. Một vài nhà thờ bị cấm lễ lạc hay bị chiếm cứ.

    Tôi rất hoan nghênh Nhà nước đă rất sáng suốt chủ trương Chính sách tự do tín ngưỡng. Điều đó rất rơ ràng trong 5 Sắc lệnh và Thông tư về tôn giáo. Nhưng đó là văn bản. C̣n các khẩu lệnh (lệnh miệng thôi) th́ nhiều khi trái ngược với tinh thần văn bản. Trong trường hợp đó, xin hỏi tôi phải nghe theo ai đây? Cứ theo văn bản hay nghe khẩu lệnh? Tôi xác tín là chính sách không sai, nhưng khẩu lệnh lại là của nhân viên chính quyền. Chắc tôi không nên đồng hóa nhân viên làm việc sai lệch với chính quyền.

    Về Nhà thờ, các nơi thờ phượng, th́ tôi xin phép so sánh như vầy. Cái ǵ là quí nhất của đất nước chúng ta hôm nay? Thiết nghĩ là các bảo tàng và lăng Hồ Chủ tịch. Các phái đoàn bạn hữu ngoại quốc, nếu không có th́ giờ đi xem các bảo tàng th́ ít ra cũng phải đến viếng lăng Hồ Chủ tịch. Giả sử ngày nào đó lăng Hồ Chủ tịch bị chiếm, bị dùng vào một việc ǵ khác, thử hỏi có người Việt Nam nào chịu như vậy không? Tôi th́ không chịu được đó và cá nhân tôi sẽ xin xung phong cùng đi giải thoát. Th́ Nhà thờ của Công giáo cũng vậy, lớn nhỏ, xấu tốt ǵ th́ cũng là nhà đă dâng cho Thiên Chúa rồi.

    Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Đại hội toàn quốc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng hai vừa rồi có chủ trương: “Bảo hộ Nhà chùa, Nhà thờ, Thánh thất đang dùng làm nơi thờ cúng của các tôn giáo”.

    Về các lễ nghi thờ phượng, từ 2 năm qua, chúng tôi đă sắp xếp không làm trong giờ lao động sản xuất. Có lẽ có người cho là thiệt hại sức khỏe, mất sức lao động, nếu thay v́ nghỉ ngơi, c̣n phải tham dự lễ nghi tôn giáo. Lí lẽ đó có thể đúng cho Nhà nước khác, mà không đúng cho nước chúng ta. Bằng chứng là lính Mỹ và binh sĩ của chế độ cũ ăn ngủ dữ lắm, đủ tiện nghi, đủ phương tiện. Nhưng chúng ta đă thắng. Tôi được nghe ông Phó chủ tịch Tống Hoàng Nguyên đây (đang điều khiển buổi họp này) kể lại những gian lao thiếu thốn của chiến sĩ ta ở Trường Sơn, tôi nghe mà rướm lệ thật, nhưng những chiến sĩ này đă thắng! Thắng v́ không phải ăn no ngủ đủ, mà v́ có tinh thần, có lư tưởng. Th́ người cùng tôn giáo chúng tôi cũng vậy, tinh thần chúng tôi thoải mái th́ mới phục vụ đắc lực được.

    Nhưng 2 năm qua rồi, chúng tôi cảm thấy chưa có tự do tín ngưỡng.

 

    Thứ hai: Về b́nh đẳng trong quyền công dân

 

    Trong hai năm qua, thú thật người Công giáo chúng tôi cảm thấy làm sao á! Ở đâu, làm ǵ cũng bị nghi ngờ, chèn ép.

    Học sinh ở trường th́ cứ nghe những bài chống đối Công giáo, mạ lị Công giáo. Thực th́ có những sai lầm trong các thế hệ, nhưng thiết nghĩ góp nó lại và so sánh với 2000 năm lịch sử Công giáo, th́ có thấm vào đâu với những việc tốt và đúng mà không được nói tới. Đàng khác, thời đại nào, kỷ cương nấy. Đem một việc của thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ, th́ chắc là không khoa học đó.

    Trong giới công nhân, công viên chức bệnh viện hay giáo viên, thường người Công giáo được cho là tiên tiến, nhưng chắc rồi cũng không làm việc được, v́ là Công giáo. Đi xin làm việc, hoặc bị từ chối, hoặc gặp khó khăn trong việc làm, muốn biết căn do, th́ được rỉ tai cho biết là bỏ đạo hay đừng đi Nhà thờ nữa sẽ êm xuôi.

    Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, th́ người Công giáo có cảm tưởng ḿnh là công dân hạng hai vậy.

    Nhà nước th́ chủ trương mọi người đều b́nh đẳng, mọi dân tộc trong Đất nước b́nh đẳng. Nước Việt Nam chúng ta có 50 triệu dân. Người Kinh 45 triệu. Gần 60 dân tộc ít người là 5 hay hơn 5 triệu. Người công dân Công giáo tối thiểu là 3 triệu, mà không được b́nh đẳng trong quyền công dân.

    Trong hai năm qua, người Công giáo trong tỉnh nhà có cố gắng nhiều, chính quyền cũng thấy đó. Về lao động cũng không có ǵ chê trách. Về bầu cử h́nh như được cho là có kỷ luật. Chúng tôi chỉ xin được b́nh đẳng trong quyền công dân thôi.

    Trong thông báo về vụ xảy ra đó của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mà chúng tôi vừa được phát ra đây, đoạn áp chót có nói: “Ủy ban Nhân dân thành phố và các cơ quan chính quyền các cấp phải thi hành đầy đủ chính sách tự do tín ngưỡng mà chính phủ đă xác định. Không cho phép ai vi phạm cũng như cho phép ai lợi dụng”.

    Lạm dụng, th́ phần chúng tôi quyết tâm không hề lạm dụng.

    Đó là vài ư kiến nhỏ của tôi, xin phép được góp phần với Mặt trận Tổ quốc trong việc đoàn kết.

    Tôi thiết nghĩ nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, th́ không ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những ǵ sai trái, rồi đổ hô và xách động để bảo vệ tôn giáo được nữa, và dân chúng không tin nữa, v́ đang có tự do tín ngưỡng rồi.

    Xin cám ơn các vị.

    (Đây là những ư nghĩ và thứ tự các ư nghĩ đó trong lời phát biểu đột xuất của tôi, trong buổi họp ngày 15-04-1977, do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên và thành phố Huế tổ chức, để thông báo về vụ chính quyền bắt giữ 6 vị Sư Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hệ phái Ấn Quang. Bài ghi lại này được tôi viết ra ngày 19-04-1977. Có thể là khi phát biểu đột xuất, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ư nghĩ và thứ tự các ư nghĩ th́ trung thực).

    Thành Phố Huế, ngày 19 tháng 04 năm 1977.

    (đă kư tên)

    ? Philipphê Nguyễn Kim Điền

    Tổng Giám Mục Huế

 

5- Lời phát biểu ngày 22 tháng 04 năm 1977

dịp tọa đàm bản dự thảo “Đề cương báo cáo của Ban Chấp hành đảng bộ Đảng CSVN tỉnh B́nh Trị Thiên” cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần I (ṿng 2)

tại trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh BTT,

có mặt các Đại diện tôn giáo, nhân sĩ và trí thức tại thành phố Huế

 

    Kính thưa Chủ tịch đoàn

    Kính thưa các vị Đại biểu

    Ông Chủ tịch điều khiển cuộc họp vừa bảo bỏ đi những lời mào đầu, mà nói lên ngay đề tài phát biểu, để tiết kiệm th́ giờ.

    Vậy tôi xin nói liền lời cảm ơn Ban tổ chức đă cho tôi vinh dự được tham gia đóng góp ư kiến vào bản Dự thảo Đề cương Báo cáo của Đảng bộ tỉnh, một việc làm có tính cách mới mẻ và cởi mở, v́ Đảng và tôn giáo thường không đi chung với nhau (Cử tọa đột xuất vỗ tay).

    Trước hết tôi xin hoan nghênh “tinh thần” của bản Dự thảo Đề cương này. Tôi nói “tinh thần”, v́ cách làm việc tập thể, có sự đóng góp trí tuệ của nhiều người; v́ biết lưu ư đến từng giới, từng ngành, từng việc nữa; nhất là v́ chân thành, khiêm tốn và can đảm nh́n nhận không những ưu điểm mà khuyết điểm nữa. Theo tinh thần đó, th́ hy vọng hay chắc chắn bản “Đề cương” sẽ được một NỘI DUNG hoàn hảo, phong phú hơn, nhờ những đóng góp tích cực của các tầng lớp đồng bào trong tỉnh.

    Phần tôi là người phục vụ tôn giáo, tôi xin phép góp một ư nghĩ “nhỏ” về CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO được nói đến trong phần thứ 2, mục C (Củng cố quốc pḥng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xă hội) trang 6 báo DÂN.

    Nếu tôi không lầm, th́ bản Dự thảo Đề cương dùng chữ “tôn giáo” chỉ có 2 lần: một lần khi  nói đến “Công tác Mặt trận trong giai đoạn mới… nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, trong đó có các tôn giáo” (trong mục B khi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân); một lần nữa trong mục C khi nói về “Củng cố quốc pḥng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xă hội”, sau khi đă kể ra bao nhiêu tội phạm và âm mưu phá hoại…

    Có người nghĩ là bản Đề cương nói đến tôn giáo ít quá. Tôi th́ tôi nghĩ Đảng phải lo không biết bao nhiêu chuyện, mà tôn giáo đối với Đảng là một vấn đề nhỏ thôi; lại Đảng chủ trương không tôn giáo, vô thần, nên có nhắc đến tôn giáo như vậy cũng tạm được rồi.

    Có người nhạy cảm thấy nói về “chính sách tôn giáo” trong mục “bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xă hội” th́ nghe làm sao á, và hơi sợ. Nhưng đọc kỹ lại, th́ tôi thấy có nói: “Trong công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xă hội, phải nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối và chính sách của đảng, đặc biệt là chính sách tôn giáo v.v…” th́ tôi an tâm, v́ Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng, mà một khi cán bộ phải “nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối chính sách của đảng”, với tinh thần can đảm biết sửa sai, th́ cũng đủ bảo đảm rồi.

    Tuy nhiên, không chắc ai cũng đều hiểu như vậy, nên để tránh những lo âu và cảm t́nh không mấy tốt của đồng bào có tôn giáo đối với Đảng, th́ tôi xin đề nghị: nếu có thể được, đem chỗ nói về chính sách tôn giáo lên mục B, nơi nói về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”. H́nh như trong nghị quyết của Đảng, kỳ Đại hội IV, đề cập về tự do tín ngưỡng cũng trong mục đó.

* * *

    Ông Tống Hoàng Nguyên, khi khởi đầu buổi họp sáng nay có dặn: nên góp ư vào việc lao động sản xuất và kinh tế cách trực tiếp hơn.

    Theo tôi nghĩ: nếu cho tự do tín ngưỡng, th́ năng suất của đồng bào Công giáo sẽ lên cao lắm. Thực th́ có chính sách tự do tín ngưỡng bằng văn bản đó (có 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo). Nhưng cũng có những khẩu lệnh đi ngược với bản văn.

    Tôi xin đơn cử một việc vừa xảy ra ngày 10-04-1977 tại thôn Trí Bưu, xă Hải Trí, huyện “mới” Triệu Hải (Quảng Trị). Ngày Chúa nhật 10-04-1977 là ngày lễ Phục sinh của Công giáo, là lễ lớn nhất trong Đạo đă được chuẩn bị bằng cả một tuần trước. Xă Hải Trí phải làm thủy lợi chính trong thị xă Quảng Trị. Huyện cho làm trong 10 ngày, nhưng xă rút xuống c̣n 5 ngày để thi đua. Mỗi thôn được chia phần của ḿnh và sẽ phát động lao tác vào sáng Chúa nhật.

    Ngày thứ 7, thôn Trí Bưu (gần hết là Công giáo) đă đệ đơn xin xă xét lại cho đồng bào Công giáo có giờ đi cử hành nghi lễ Đạo, rồi sau đó sẽ đi làm, nếu không kịp th́ xin làm đêm nữa. Nhưng xă không cho, nói là có lệnh phải đi làm.

    Có người nói với xă xin xét lại, v́ nếu đồng bào họ không tuân lệnh th́ tổn thương phần nào uy quyền của Chính quyền địa phương đi. Như hôm lễ Giáng sinh 1976, thôn Trí Bưu cũng đă không đi làm, v́ họ phải đi lễ. Nhưng xă cũng cương quyết không xét lại. Th́ rồi thôn Trí Bưu lấy quyền nhân dân làm chủ nên không đi làm thủy lợi hôm đó, mà đi lễ hết. Nhưng sau lễ, họ huy động cả thôn ra làm thủy lợi, th́ thay v́ 5 ngày, họ làm trong 2 ngày rưỡi là xong. Nghe nói xă định tuyên dương họ, nhưng họ xin không nhận, v́ lẽ họ có không tuân lệnh đi làm trong ngày lễ Chúa Phục sinh hôm đó.

    Nếu người công dân Công giáo được thoải mái về tín ngưỡng của họ, th́ họ sẽ phục vụ hăng say có lợi cho kinh tế lắm. Điều này tôi chắc Đảng và Nhà nước quá hiểu nên đă có chính sách tự do tín ngưỡng vậy.

    Vậy tôi xin phép mở một cái ngoặc, để xác định lại cái danh từ “Thiên Chúa giáo” và “Công giáo”. Tôi thấy trong văn thư của chính quyền chỉ dùng có danh từ “Thiên Chúa giáo” để chỉ người Công giáo. Thực ra, “Thiên Chúa giáo” chỉ chung những con người tin thờ Thiên Chúa trong đó có gần 200 triệu thuộc Chính thống giáo, hơn 200 triệu thuộc Tin lành và hơn 650 triệu thuộc Công giáo. Tất cả là hơn 1 tỷ người. Đó là Thiên Chúa giáo theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng th́ phải kể cả thế giới Hồi giáo nữa, v́ họ cũng tin thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, giữa những người cùng tin thờ Thiên Chúa đó, có cơ cấu khác nhau, có tổ chức khác nhau. Đến đây tôi xin đóng ngoặc lại.

    Tôi xin trở lại chính sách tự do tín ngưỡng. Tôi thiết nghĩ chỉ có tự do tín ngưỡng thực sự th́ những người có tín ngưỡng mới sống thoải mái hạnh phúc trong chế độ xă hội chủ nghĩa mà thôi. Thực th́ Đảng và nhà nước có chủ trương chính sách tự do tín ngưỡng bằng sắc lệnh, bằng văn bản. Nhưng trong thực tế, vẫn có những khẩu lệnh đi ngược với chính sách. Việc này chắc c̣n phải dài lâu và hy vọng sẽ được giải quyết từng trường hợp.

    Đảng chủ trương tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Nhưng thiết tưởng không v́ thế mà được mạ lỵ tín ngưỡng.

    Ông Tống Hoàng Nguyên hôm trước có khẳng định: “Đảng chúng tôi không cấm tôn giáo đâu. V́ coi đó là một yêu cầu xă hội và tâm lư. Bao lâu nhân dân cần đến th́ cứ để”. Tôi cũng nghĩ như vậy: chừng nào đồng bào không thèm tôn giáo nữa th́ thôi, tự nhiên sẽ hết tôn giáo. C̣n cấm cản, th́ chắc không cấm cản được.

    Không thể cấm cản hay diệt trừ tôn giáo được. Điều này có lịch sử chứng minh. Đạo Công giáo khi mới c̣n là một nhóm nhỏ đă bị bắt bớ trong 300 năm ở đế quốc La mă rồi. Nay đế quốc La mă mất lâu rồi, đạo Công giáo vẫn c̣n và c̣n nhiều. Hy lạp cổ xưa cũng mất lâu rồi, mà đạo Công giáo vẫn c̣n. Nhật bản đă diệt đạo Công giáo và đă có trụ đá khắc chữ: người Kitô giáo không c̣n nữa trên đất Phù tang. Nhưng năm 1865, người ta phát hiện ra người Công giáo Nhật sau 250 năm vắng bóng công khai trên đất Nhật. Ở Việt nam, đạo Công giáo có từ năm 1533, chứ không phải lúc Pháp đến, và do một số người truyền đạo không phải là người Pháp. Không may, sự hiện diện của các người truyền đạo Pháp trùng hợp với lúc Việt nam bị mất độc lập và tự do. Đạo Công giáo ở Việt nam bị bắt bớ khi ít khi nhiều trong ṿng 260 năm, nhất là trong triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Các vua này mất hết rồi và đạo Công giáo vẫn c̣n với khoảng 3 triệu tín đồ bây giờ.

    Tôi có đọc những tài liệu bài trừ Công giáo ở Liên xô, cũng như trong một số nước ở tại Đông Âu. Dù cho có cố gắng hay điều chỉnh kế hoạch cũng không tiêu diệt tôn giáo được. Bằng chứng là sau 60 năm, vẫn c̣n tôn giáo ở Liên xô và ở các nước kia.

    Năm rồi, tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi đă nghe một vị ở trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói: “Chúng tôi, người Cộng sản, thông cảm dễ dàng với người Thiên Chúa giáo, v́ chúng tôi cũng quốc tế, v́ chúng tôi cũng bị đàn áp bắt bớ. Trong 30 năm qua, Cộng sản đâu có quyền sống trên mặt đất Việt nam này, bị tầm nă luôn, gặp đâu là giết đó. Nhưng có quyền lực nào đàn áp được chúng tôi đâu. Cuối cùng, chúng tôi thắng. Không thể đàn áp tư tưởng được. Do đó, chúng tôi có chính sách tự do tín ngưỡng”.

    Ở địa phương kia có xảy ra một biến cố. Dân chúng di tản cả. Nhưng c̣n sót lại một bé gái 8 tuổi chạy tới chạy lui khóc lóc t́m cha mẹ. Những người có bổn phận ổn định t́nh thế hỏi nó th́ mới biết nó lạc mất cha mẹ. Họ an ủi nó: “Thôi em, đừng buồn nữa. Đó là dấu cha mẹ em không thương em đó. Nếu thương th́ sao quên con ḿnh được. Mà em là Công giáo phải không? Này nói cho em biết, từ nay sắp lên, không c̣n có đạo ở đây nữa nghe chưa!” Bé gái không khóc nữa mà dơng dạc nói: “Không đúng, bao lâu c̣n tôi là c̣n đạo!”

    Đạo ở trong ḷng, cho dù bên ngoài không c̣n di tích ǵ nữa, nhưng c̣n trong ḷng, không ai động đến được. Có thể giết xác, nhưng không thể giết được ḷng. Quan niệm của Công giáo là vậy.

    Hôm qua có một vị phát biểu là đă nghe Hồ Chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không lao động trí óc, th́ là một con người bán thân bất toại”. Câu nói đó rất chí lư, sáng suốt. Th́ cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng, th́ là con người bán thân bất toại vậy. Như thế, ích lợi ǵ cho Tổ quốc!

    Có người nghĩ là Công giáo tồn tại nhờ dựa trên kinh tế, trên thế lực. Không phải vậy mà ngược lại. Đấng lập đạo Công giáo đă nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ta không có chỗ gối đầu”. Và Người c̣n chủ trương một điều mà trên đời không mấy ai chấp nhận là: “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo”. Thật vậy, khi nào vinh quang, có nhiều của cải là lúc Công giáo yếu nhất. Ngược lại, Công giáo càng nghèo khó, càng túng thiếu bao nhiêu th́ càng mạnh bấy nhiêu.

    Về các việc từ thiện, xă hội, th́ Công giáo chúng tôi quan niệm thế này. V́ chính quyền không làm hết các việc đó, nên chúng tôi phụ lực với chính quyền, như con cái trong nhà phụ việc cho cha mẹ. Ngày nào chính quyền tự làm được hết các việc đó, th́ chúng tôi vui mầng trao lại cho chính quyền. Bằng chứng là sau ngày Giải phóng, chúng tôi đă trao cho chính quyền hơn 60 cơ sở giáo dục, trong đó có trường Thiên hựu ở gần đây.

    Về nhà thờ, th́ dù lớn nhỏ, xấu tốt chi th́ cũng là của đă dâng cho Thiên Chúa rồi, không thể xâm phạm được, cũng như không thể xâm phạm lăng Hồ chủ tịch vậy.

    Vừa rồi có vụ không hay xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh liên quan tới cô nhi viện Quách Thị Trang. Chúng tôi cũng có cô nhi viện Kim Long, đă trên 30 năm rồi, chỉ do một nhóm nhỏ nữ tu điều hành tự túc. Hiện nay có hơn 200 người, từ trẻ sơ sinh đến ông già bà lăo mù ḷa, tê bại. Bây giờ, các nữ tu phải lo tự túc ăn uống hằng ngày cho bao nhiêu người đó. Vậy ngày nào chính quyền tỉnh B́nh Trị Thiên định quản lư là chúng tôi vui mầng trao ngay cho chính quyền.

    Đó là những điều tôi xin chân thành phát biểu với các vị.

    Xin cám ơn.

    (Bài này được tôi viết ra ngày 24-04-1977, đă phát biểu ứng khẩu ngày 22-04-1977. Có thể khi phát biểu ứng khẩu, câu văn và nhiều từ không được “nguyên văn” như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ư nghĩ và thứ tự các ư nghĩ th́ trung thực).

    Thành Phố Huế, ngày 24 tháng 04 năm 1977.

    (đă kư tên)

    + Philipphê Nguyễn Kim Điền

    Tổng Giám Mục Huế

 

 

6- Thư gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

tỉnh B́nh Trị Thiên ngày 27 tháng 10 năm 1977

(phúc đáp Nhận định của MTTQ Tp HCM ngày 06-08-1977

về hai bài phát biểu tháng 4-1977)

 

   

HỘI THÁNH CÔNG GIÁO                      Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

Ṭa Tổng Giám mục Huế                                   Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

          VIỆT NAM

Huế, ngày 27 tháng 10 năm 1977

    Kính gửi:

 

ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

Tỉnh B́nh Trị Thiên

 

    Kính thưa Ủy Ban

    Một số giáo dân và đồng bào tỉnh B́nh Trị Thiên, sau khi được dự những hội nghị do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp của tỉnh B́nh Trị Thiên tổ chức để nhận định, phê phán về nội dung và việc phổ biến hai bài phát biểu của tôi trong tháng 4-1977, đă gởi kiến nghị yêu cầu tôi giải thích minh bạch về sự việc “trước Chính quyền, trước Mặt trận và trước giáo dân cùng đồng bào cả nước”.

    Các kiến nghị đó cũng được kính gởi cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên.

    Để thỏa măn yêu cầu chính đáng đó của đồng bào, tôi xin phép được giải thích sự việc trước tiên cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên và sau kính nhờ Ủy ban đệ đạt cho Chính quyền cùng thông báo cho đồng bào được rơ, v́ cũng đă nhờ Ủy ban mà đồng bào được có các buổi hội nghị để biết sự việc nói đây.

    Ngày 09-04-1975, dịp lễ ra mắt của Ban chấp hành Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, tôi có phát biểu: “Đồng bào Công giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt, để cùng với Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xă hội đầy t́nh thương, tự do, dân chủ, thịnh vượng và ḥa b́nh, trong đó chúng tôi được chu toàn bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.

    Năm 1976, tôi đă phát động tư tưởng “VUI SỐNG” trong giới đồng bào Công giáo Giáo phận Huế bằng những bài giáo lư của tập “TÔI VUI SỐNG” giúp đem niềm tin lồng vào cuộc sống hôm nay để góp phần xây dựng một Đất nước giàu đẹp, vui tươi, hạnh phúc.

    Cũng trong tinh thần nhập cuộc và xây dựng đó, tôi đă phát biểu ư tưởng một cách đột xuất và chân t́nh trong hai buổi hội nghị do MTTQVN tỉnh BTT tổ chức tại Huế vào tháng 4-1977. Mặc dù trong các buổi hội nghị sau này, đồng bào không bao giờ được trực tiếp biết nội dung hai bài phát biểu của tôi, nhưng nhờ có bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh, đồng bào được biết tôi đă có ư kiến về tự do tín ngưỡng, về công dân hạng hai, về vụ Vinh Sơn, Ấn Quang.

    Kể từ ngày tôi phát biểu đến bây giờ đă là sáu tháng, hôm nay tôi lại được nói ở đây về ba mục ấy cách rơ ràng hơn:

 

    1- Về tự do tín ngưỡng. Phải nói thực là tôi không bao giờ khẳng định: không có tự do tín ngưỡng. Trong lần phát biểu 1, tôi nói đi nói lại 3 lần: “chưa có tự do tín ngưỡng thực sự”. Nghĩa là có mà chưa đầy đủ và nơi này nơi khác c̣n có một số sai trái trong việc thực thi chính sách tự do tín ngưỡng. Cốt làm sáng tỏ cái ư đó mà hai lần tôi đă nói: “Tôi chưa cảm thấy thoải mái về tự do tín ngưỡng”… “Tôi cảm thấy không thoải mái, v́ chưa có tự do tín ngưỡng thực sự”. Thế là tôi không phủ nhận, tôi chỉ mong ước cho đầy đủ thôi. V́ đầy đủ tự do tín ngưỡng, như Công đồng Vatican II, th́ không phải chỉ có việc đi lễ tại nhà thờ, mà c̣n việc học giáo lư để biết sống đạo của ḿnh, c̣n việc huấn luyện cho có những người dạy giáo lư và phục vụ tế tự là Linh mục, Tu sĩ, c̣n phải được xây cất và tu sửa nhà thờ để có nơi hành Đạo, lại phải c̣n được truyền Đạo nữa, miễn “không làm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Về mặt tiêu cực, tự do tín ngưỡng có nghĩa là không ai có quyền ép buộc người khác (bằng áp lực tinh thần hay tâm lư, bằng bạo lực hay thủ đoạn…) phải chấp nhận hay từ bỏ niềm tin nào trái ngược với lương tâm của họ.

    Sự chưa đầy đủ và một số sai trái mà tôi đă nói lên đó cũng được bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi cho Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh thẳng thắn xác nhận: “Chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước Cách mạng là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nơi này hay nơi khác, c̣n có hành động trái với chính sách, trái với hiến pháp v.v… Những thiếu sót, sai trái này là nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta”. Chính v́ cùng mang chung “nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta” đó mà tôi mới chân thành nêu lên một vài thiếu sót tại tỉnh nhà để mong được uốn nắn kịp thời hầu cho chính sách tôn giáo được sáng tỏ và sự đoàn kết dân tộc măi măi đậm đà. Bức thư MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh lại viết rơ thêm: “Trong văn bản, tác giả nêu cụ thể về một số thiếu sót ở nơi này hay nơi khác của một số cán bộ chính quyền cách mạng; cũng như đ̣i phải thấy mặt tốt của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Thiếu sót của chính quyền cách mạng cũng như mặt tốt của đồng bào theo đạo không phải là không có. Thậm chí thiếu sót của chính quyền cách mạng ở nơi này hay nơi khác có cái c̣n nghiêm trọng, không phải chỉ là đối với chính sách tôn giáo, mà c̣n thiếu sót trong vấn đề tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong vấn đề kinh tế v.v… và chúng ta đang cố gắng khắc phục”. Khi viết ra những gịng như thế, hẳn là MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh đă minh xét vấn đề và đă nắm đủ bằng chứng hơn tôi để xác quyết những điều mà tôi chỉ nói đại khái trong khu vực hạn hẹp của một giáo phận thôi.

    2- Về công dân hạng hai. Trong lời phát biểu ngày 15-04-1977, tôi có nói: “Thực như lời phát biểu của một ủy viên của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi đó, th́ người Công giáo có cảm tưởng ḿnh là công dân hạng hai vậy”. Khi mượn lời ấy, tôi chỉ muốn nói lên sự việc là một số người Công giáo cảm thấy ḿnh không được tiếp nhận cách dễ dàng như ḷng họ mong ước.

    Việc này hẳn là có lư do khách quan và chủ quan của nó.

    Lư do khách quan, tôi thấy MTTQ Thành phố HCM đă ghi rơ hơn tôi như sau: “Một số cán bộ cách mạng do tŕnh độ c̣n non kém hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chính sách. Mặt khác, phải thấy một thực tế nữa là hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai phản động tạo ra hơn 100 năm nay không thể một sớm một chiều xóa bỏ ngay được. Những tồn tại này tuy đă được từng bước khắc phục, nhưng vẫn c̣n dai dẳng, tác động xấu đến mối quan hệ giữa cách mạng và tôn giáo”.

    Lư do chủ quan là cùng một hiện tượng mà một số người dân Công giáo có cái nh́n khác với cái nh́n của Nhà nước. Ví dụ một Linh mục không đến được để cử hành Thánh lễ và dạy giáo lư cho giáo dân một nơi nào đó, v́ lư do không xin được phép đi lại, th́ những giáo dân đó có cảm tưởng Linh mục bị phân biệt đối xử v́ là Linh mục, c̣n ḿnh không có Thánh lễ và không được học giáo lư là v́ có sự hạn chế tự do tín ngưỡng, bởi thế không cho Linh mục đến. Đang khi đó, chính quyền th́ xét cần phải hạn chế sự đi lại của Linh mục kia v́ lư do chính trị, an ninh hay trật tự chẳng hạn.

    Tuy chỉ là một cảm tưởng của giáo dân, nhưng tôi cũng nói lên bởi v́ nó có thể tác hại cho t́nh đoàn kết dân tộc.

    Có nói lên các lư do cả khách quan lẫn chủ quan là để t́m nguyên do và phương cách lần hồi khắc phục và cải tiến.

    Mỗi người Công giáo chúng tôi quyết tâm tự khắc phục để được vô tư và khách quan, biết nh́n toàn diện mỗi vấn đề cũng như mỗi con người. Như thế sẽ công b́nh và tạo được đoàn kết.

    3- Về vụ Vinh Sơn và Ấn Quang. Ngày 15-04-1977, tôi đă phát biểu: “Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn, v́ chính tôi đă trải qua cái cảnh tượng như vầy trong vụ Vinh Sơn”. Tôi có ư nói cái cảnh tượng buồn tủi, đau xót khi nghe thông báo tội trạng của người đồng đạo với ḿnh. Tôi đă phát biểu liền đó: “Chắc chắn, không ai trong chúng ta có mặt hôm nay chấp nhận công việc làm như bản thông báo kể lại đó. Tuy nhiên, không khỏi xót xa khi vụ đó có liên can đến người cùng tôn giáo với ḿnh”.

    “Nhưng đây là một biến cố thôi, và các biến cố tương tự có thể c̣n xảy ra, nếu không trừ tận gốc”. Nói “tận gốc” là tôi muốn nói phải khắc phục hết mọi hiện tượng gây trở ngại cho tự do tín ngưỡng.

    Cuối lời phát biểu tôi lại nói: “Tôi thiết nghĩ, nếu có tự do tín ngưỡng thực sự, th́ không c̣n ai tựa vào sự đàn áp tôn giáo mà làm những ǵ sai trái, rồi đổ hô rồi xách động, để bảo vệ tôn giáo được nữa, v́ dân chúng không tin nữa, bởi lẽ đang có tự do tín ngưỡng rồi”.

    Do đó tôi không muốn nói: v́ không có tự do tín ngưỡng, cho nên mới có vụ Vinh Sơn, vụ Ấn Quang; mà ư tôi muốn nói là: bao lâu chưa có tự do tín ngưỡng thực sự th́ tín ngưỡng sẽ c̣n là cái cớ để bị lợi dụng.

 

    C̣n việc phổ biến hai bài phát biểu?

 

    Quả thực, tôi đă ghi lại thành văn bản sau hai lần phát biểu đột xuất ấy. Việc ghi lại thành văn bản những ǵ ḿnh đă nói trong các dịp quan trọng là điều tôi đă luôn quen làm từ hơn 20 năm qua, với mục đích lănh trách nhiệm những điều đă nói, đồng thời để tránh sự vận dụng những tư tưởng đă được phát biểu ngoài hoặc trái ư tôi muốn nói.

    Tôi đă ghi lại thành văn bản để lưu chiếu tại Văn pḥng Ṭa Tổng giám mục Huế. Riêng người duy nhất được chính tôi gởi để kính tường là Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn B́nh ở Thành phố Hồ Chí Minh, v́ giữa người và tôi luôn luôn có liên hệ chặt chẽ. B́nh thường th́ tôi báo cáo cho các Linh mục trong giáo phận biết những ǵ quan trọng tôi đă nói đă làm v́ các vị là những cộng sự viên trực tiếp của tôi. Lần này tôi không làm bổn phận báo cáo đó. Tuy nhiên có một số người (Linh mục, Giáo dân) nghe dư luận đề cập đến những lời tôi phát biểu tại Hội nghị (có thể do việc một số đại biểu tham dự hai buổi hội nghị tháng 4-1977 phản ảnh lại cho những người liên hệ của ḿnh biết việc tôi phát biểu và nội dung lời phát biểu của tôi) đă đến Văn pḥng Ṭa Tổng giám mục t́m hiểu thực hư thế nào, và có thể đă xin Linh mục thư kư cho xem nguyên văn lời phát biểu của tôi để đối chiếu với những lời được dư luận đồn đăi. Đó cũng là trường hợp của Linh mục Hồ Văn Quư, Giám đốc Đại chủng viện Huế, đối với các chủng sinh của ḿnh, trước các nguồn dư luận bên ngoài. Trong việc t́m hiểu thực hư này, chắc hẳn đă có một số người v́ vô t́nh hay hữu ư lưu hành hai bài phát biểu của tôi, rồi lại bị một số người khác lợi dụng phổ biến rộng răi với ư đồ xấu gây ra tác hại.

    Những lời phát biểu đột xuất trong một hội nghị địa phương với khung cảnh đặc thù của nó tự nhiên sẽ không c̣n được hiểu đúng mức, nếu bị đem ra phân tích ngoài bối cảnh của nó. Phương chi nếu có bị lợi dụng với ư đồ chia rẽ và phổ biến rộng răi, thậm chí ra cả nước ngoài, th́ sự tác hại phải là to tát. Do đó, tôi rất đau xót về sự tác hại ngoài ư muốn và ngoài dự đoán của tôi, nên tôi chẳng những không đồng t́nh mà lại cực lực phản đối những ai cố t́nh dùng những lời phát biểu của tôi để làm tổn thương t́nh đại đoàn kết của dân tộc và tổn hại uy danh của Nhà nước chúng ta.

    Riêng về trường hợp hai Linh mục Nguyễn Văn Lư, Thư kư Ṭa Tổng giám mục Huế, và Linh mục Hồ Văn Quư, Giám đốc Đại chủng viện Huế, lần lượt được chính quyền triệu tập và xét hỏi từ ngày 07 và 08-09-1977 đến nay, tôi tin tưởng sẽ sớm được giải quyết thỏa đáng.

    Đó là tất cả sự thật mà các kiến nghị của một số đồng bào yêu cầu tôi phải nói lên “trước Chính quyền, trước Mặt trận và trước giáo dân cùng đồng bào cả nước”.

    Ngày 21-10-1977, tôi hân hạnh được mời đến làm việc với Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên để t́m cách khắc phục những hậu quả tác hại nói trên.

    Vậy tôi xin được đề xuất cụ thể:

    Tác hại tới đâu th́ phải khắc phục tới đó, nên xin cho phổ biến bức thư giải thích này tới những nơi nào mà hai bài phát biểu của tôi đă tới.

    Cách phổ biến:

    1- cho đồng bào Công giáo giáo phận Huế, th́ tôi xin các Linh mục trong toàn giáo phận thông báo cho giáo dân, chủng sinh, tu sĩ trực thuộc vào ngày Chúa nhật 06-11-1977.

    2- cho đồng bào không Công giáo tỉnh B́nh Trị Thiên, th́ tôi kính nhờ Ủy ban MTTQVN tỉnh B́nh Trị Thiên thông báo trên báo DÂN và các hội nghị.

    3- cho đồng bào cả nước, th́ xin các báo đăng bức thư này, ít là các báo nào đă đăng bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh. (Thiết tưởng các tác hại ở trong nước cũng như ở nước ngoài đă phần nào được bức thư của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh gởi cho Tổng giám mục Nguyễn Văn B́nh khắc phục rồi. Tôi xin chân thành cảm ơn MTTQVN Thành phố HCM).

    4- cho ngoại quốc, xin MTTQVN tỉnh B́nh Trị Thiên buộc những báo chí ngoại quốc nào đă đăng hai bài phát biểu của tôi từ trước đây th́ nay phải đăng bức thư giải thích này, theo luật báo chí quốc tế.

    Nhờ các buổi hội nghị, và nhất là nhờ Thông báo của Ủy ban mà đồng bào được biết việc Ủy ban đă tận t́nh và nhẫn nại giúp đỡ Ṭa Tổng giám mục chúng tôi bấy lâu, như các kiến nghị có nhắc đến, th́ nay cũng xin Ủy ban vui ḷng giúp tôi hoàn thành việc khắc phục các tác hại đó. Kính xin Ủy ban nhận nơi đây ḷng biết ơn thắm thiết của tôi.

    Cuối cùng, tôi xin được nói như Ủy ban trong Thông báo ngày 17-09-1977: “Hơn lúc nào hết, đồng bào Thiên Chúa giáo hăy cùng những người Cộng sản, cùng đồng bào các tôn giáo khác và toàn thể nhân dân xiết chặt hàng ngũ, vượt qua những thành kiến do lịch sử để lại, khắc phục những khó khăn trước mắt, chung lo việc nước, việc nhà và lo cho phần đạo của ḿnh trong tinh thần yêu Nước và kính Chúa”

    Trân trọng kính chào Ủy ban.

    (kư tên)

    + Ph. Nguyễn Kim Điền

    Tổng Giám mục Huế

 

********************

 

Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam              Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

              Tp Hồ Chí Minh                                               Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

             55 Mạc Đỉnh Chi

           Đt: 93.771 - 93.772

Tp Hồ Chí Minh, ngày 06-08-1977

Số 425/UBMT/VT

NHẬN ĐỊNH VỀ HAI BẢN VĂN

ghi lại lời phát biểu của TGM Nguyễn Kim Điền

    Kính gởi:

 

Ông Tổng giám mục Nguyễn Văn B́nh

Tổng giáo phận Tp HCM

 

    Thưa ông Tổng giám mục,

 

    Gần đây Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp HCM được biết có luân lưu, phổ biến trong một số linh mục, tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo ở Tp HCM hai bản văn có ghi lời phát biểu của ông Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền địa phận Huế. Hai bản văn này không chỉ luân lưu, phổ biến trong giới Thiên Chúa giáo mà c̣n phổ biến tới cả một giới Phật giáo và tới một số nơi khác nữa.

    Bản văn thứ nhất, ghi lời phát biểu của ông Nguyễn Kim Điền ngày 15-04-1977 trong cuộc họp do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên và thành phố Huế, tổ chức để thông báo vụ chánh quyền Tp HCM bắt giữ bọn phản động trong Phật giáo thuộc hệ thống Ấn Quang.

    Bản văn thứ hai, ghi lời phát biểu của ông Nguyễn Kim Điền ngày 22-04-1977 để đóng góp ư kiến vào bản dự thảo Đề cương báo cáo của ban Chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh B́nh Thị Thiên trong Đại hội Đảng lần thứ nhất ṿng hai, cũng do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh B́nh Trị Thiên triệu tập.

    Chúng tôi chưa rơ hai bản văn này có phải đúng là của ông Tổng giám mục địa phận Huế ghi hay không? Sự ghi chú đó có phản ảnh trung thành phát biểu của ông Tổng giám mục địa phận Huế hay không? Và chúng tôi cũng chưa biết rơ việc phổ biến hai bản văn đó là có ư kiến của ông Nguyễn Kim Điền hay không? Ai là người chịu trách nhiệm phổ biến? Chúng tôi mong ông Tổng giám mục cho hỏi lại và cho chúng tôi được biết.

    Theo ư kiến chúng tôi, trong hội nghị mỗi người cần phải được phát biểu ư kiến một cách tự do, thoải mái, nói lên những nhận thức, suy nghĩ, băn khoăn của ḿnh. Những ư kiến cá nhân đó có thể đúng hoặc mới đúng có một mặt, thậm chí có thể có những nhận thức sai lầm. Nhưng đó là yêu cầu hoàn toàn cần thiết của hội nghị. Có nhiều ư kiến có khi trái ngược nhau như vậy mới bổ túc cho nhau, làm cho nhận thức cuộc hội họp thêm chín chắn, toàn diện, phong phú.

    Trong hội nghị, những ư kiến này được trao đổi qua lại mà biến thành nghị quyết. Ngược lại, nếu đem một vài phát biểu đơn phương trong hội nghị mà phổ biến ra ngoài, th́ đối với những ư kiến sai lầm sẽ gây một tác hại, có khi rất to lớn. Ngay đối với những ư kiến đứng đắn, khi phổ biến rộng răi ra ngoài quần chúng cũng đ̣i hỏi chúng ta phải làm sao cho quần chúng dễ hiểu, nhằm nâng cao hiểu biết quần chúng lên, tránh sự ngộ nhận có thể có trong quần chúng. Mặt khác, cũng phải làm sao tránh những sơ hở không để cho bọn xấu cũng như kẻ địch xuyên tạc và lợi dụng.

    Trong khi tất cả chúng ta, những người có thiện chí, lương cũng như giáo, tín đồ cũng như hàng giáo phẩm, đều nỗ lực phấn đấu để lấp bằng những chia rẽ, những thành kiến mà bọn đế quốc đă tạo ra trong suốt thời kỳ đô hộ của chúng hằng thế kỷ nay, th́ việc đơn phương phổ biến hai bản văn này chỉ đào sâu thêm thành kiến, rất có hại cho sự đoàn kết dân tộc. Nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn và vạch rơ phải trái th́ chỉ càng làm lợi cho kẻ thù của dân tộc.

    Để vạch rơ phải trái, trước hết chúng tôi đi ngay vào phân tích nội dung của hai bản văn. Hai bản văn đó tuy dài, nhưng chung quy tập trung nêu lên hai vấn đề:

    - Một là không có tự do tín ngưỡng. Những người theo đạo Thiên Chúa bị chèn ép. Chính sách tự do tín ngưỡng chỉ có trên văn bản, c̣n trong thực hành th́ không có tự do tín ngưỡng.

    - Hai là v́ không có tự do tín ngưỡng mới có sự chống đối như là vụ Vinh Sơn, như vụ bọn phản động trong giới Phật giáo Ấn Quang v.v…

    Chính sách tự do tín ngưỡng không những đă được thể hiện rơ ràng trên văn bản, trong lời nói, mà c̣n thể hiện trong việc làm cụ thể hằng ngày. Đó là việc nhà thờ, chùa chiền, thánh thất được tiếp tục mở cửa hoạt động b́nh thường. Mọi h́nh thức tu hành của bà con giáo dân và sự hoạt động của các giáo hội như lễ lộc, đi nhà thờ, thờ cúng, ăn chay, niệm Phật, rao giảng Kinh thánh của các Giáo hội trong tín đồ được tự do. Những ngày lễ lớn như: Chúa Giáng sinh và Phật đản v.v… chánh quyền hết sức quan tâm giúp đỡ, bảo vệ chu đáo an toàn, để bà con giáo dân hành lễ trang nghiêm, tự do thoải mái. Việc theo đạo và không theo đạo thật sự là quyền tự do của mỗi công dân. Không hề có bất cứ hành động nào phân biệt đối xử về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đối với người có đạo và không có đạo… Đặc biệt đồng bào giáo cũng như lương đều được bảo đảm đầy đủ quyền b́nh đẳng về chính trị, kinh tế, quyền tham gia bầu cử và ứng cử, quyền được hưởng được phân phối như nhau. Trên thực tế đă có nhiều đại biểu xứng đáng của giáo dân trong các giáo hội, có cả một số giáo phẩm cao cấp đă trở thành đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân và thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cao cấp.

    Từ ngày giải phóng đến nay, chính những đại biểu này, cũng như đại bộ phận đồng bào theo đạo Thiên Chúa đă đóng góp xứng đáng phần ḿnh vào việc đoàn kết dân tộc xây dựng đất nước. Trong phân phối và chăm lo đời sống, chánh quyền đều lo lắng chung cho tất cả mọi người, ngọt bùi, đói no, chia sẻ. Tất cả những điều cơ bản đó nói lên rằng: nếu không có chính sách tự do tín ngưỡng, không có chánh sách đoàn kết dân tộc đúng đắn, chân thành th́ làm sao có được như vậy. Bọn đế quốc và tay sai đă dùng bao nhiêu cực h́nh dă man nhứt, bao nhiêu thủ đoạn thâm độc nhứt để đàn áp tư tưởng cách mạng nhưng chúng đă thất bại đau đớn và nhục nhă… V́ vậy qua kinh nghiệm xương máu của bản thân ḿnh, người cách mạng hiểu rất thấm thía rằng không thể nào giải quyết vấn đề tư tưởng và tín ngưỡng bằng những biện pháp thô bạo được. Do đó, chánh sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước cách mạng là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nơi này nơi khác, c̣n có hành động trái với chánh sách, trái với Hiến pháp v.v… Những thiếu sót, sai trái này là nỗi băn khoăn lo lắng của tất cả chúng ta. Chúng ta phải ra sức đoàn kết với nhau, bàn bạc trao đổi với nhau, đồng thời phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kiểm tra phê phán để khắc phục cho được thiếu sót trên.

    Những tồn tại trên đây có nguyên nhân chủ quan và khách quan của nó. Một số cán bộ cách mạng do tŕnh độ c̣n non kém, hoặc do chưa hết thành kiến mà làm sai đường lối chánh sách. Mặt khác, phải thấy một thực tế nữa là hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai phản động tạo ra hơn 100 năm nay không thể một sớm một chiều xóa bỏ ngay được. Những tồn tại này tuy đă được từng bước khắc phục, nhưng vẫn c̣n dai dẳng, tác động xấu đến mối quan hệ giữa cách mạng và tôn giáo. Phải thừa nhận đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp đ̣i hỏi phải có nỗ lực chung của chúng ta.

    Về phía ḿnh, cho đến nay, do bị ảnh hưởng tuyên truyền xuyên tạc của địch, nên trong Thiên Chúa giáo cũng như trong tôn giáo khác, số người c̣n thành kiến đối với cách mạng không phải là ít, nhất là trong hàng chức sắc, giáo phẩm. Thậm chí có một số người c̣n có những thái độ cực đoan, đi tới những chống đối quyết liệt.

    Bọn đế quốc trước đây không những đă ra sức lợi dụng t́nh h́nh trên để chống cách mạng và che giấu ư đồ xâm lược của chúng; và từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, các giới đế quốc vẫn tiếp tục lợi dụng khai thác những thành kiến vốn dĩ do chúng tạo ra đó để kích động những hành động chống phá cách mạng trong các tôn giáo, đặc biệt trong Thiên Chúa giáo là nơi mà bọn đế quốc đă tập trung thực hiện âm mưu của chúng hàng trăm năm nay. Trong điều kiện lịch sử khắc nghiệt như thế, nên đă h́nh thành trong Thiên Chúa giáo một số người có thành kiến rất sâu sắc với cách mạng, đi đến chống đối cách mạng một cách cực đoan và có hệ thống; thậm chí có những người cam tâm để địch lợi dụng chống lại cách mạng, chống lại dân tộc. Số này đă có những h́nh thức tuyên truyền miệng, rỉ tai, lợi dụng diễn đàn nhà thờ, chùa chiền, thánh thất; lợi dụng việc rao giảng đạo pháp để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng chống đối cách mạng. Số khác lại chủ trương viết truyền đơn, khẩu hiệu phản động; thậm chí c̣n tổ chức lực lượng chính trị, nhen nhóm phản động, gây bạo loạn vơ trang chống đối cách mạng.

    Đó là một sự thực lịch sử rất đau ḷng, không những đối với những người theo đạo Thiên Chúa, mà đau ḷng cả đối với toàn thể dân tộc.

    Chúng ta cần phải dũng cảm nh́n thẳng vào sự thật đó để cùng nhau đoàn kết, sáng suốt và b́nh tĩnh gỡ ra những rối rắm lịch sử mà bọn đế quốc để lại cho đất nước, phá hoại sự đoàn kết của dân tộc ta. Chúng ta, những người có trách nhiệm, phải cùng nhau bàn bạc, quyết không để cho có những rối rắm mới có lợi cho bọn đế quốc và tay sai, mà đắc tội với lịch sử và dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết đập tan âm mưu của bọn đế quốc và tay sai, kiên tŕ giải thích tranh thủ những người lầm lạc. Cuối cùng chánh nghĩa nhất định bao giờ cũng thắng. Đó là quy luật của lịch sử.

    Không thể nói đơn giản như tác giả của hai bản văn là: “Đem việc thời đại xa xưa mà phán đoán theo tầm mắt hiện giờ th́ không khoa học đó”.

    Đúng, chuyện ngày nay không thể giống y như chuyện ngày xưa nữa. Lịch sử đă phát triển khác trước nhiều và đă có những thay đổi lớn lao. Nói như thế là khoa học. Nhưng đồng thời khoa học cũng xác nhận tính nối tiếp và tính kế thừa của lịch sử nữa. Bọn đế quốc và đội quân xâm lược đă bị tống cổ đi rồi, nhưng những tồn tại, những thành kiến do chúng gây ra c̣n nặng nề, vài ba năm giải phóng chưa xóa bỏ ngay hết được. Chúng ta c̣n phải cảnh giác, c̣n phải đồng tâm hiệp lực, bền bỉ đấu tranh xóa bỏ thành kiến, tranh thủ giác ngộ người lầm lạc, chống bọn phản động và tay sai đế quốc. Không thể như tác giả hai bản văn đă đơn giản nêu rằng: “Về phần chúng tôi th́ không lạm dụng tự do tín ngưỡng…” Chữ “chúng tôi” đây tác giả muốn chỉ ai? Chúng tôi là những người có thiện chí hay bao gồm cả những người c̣n thành kiến sâu sắc và cả số cực đoan và phản động. Do đó, trong lời nói, hành động một số người có thiện chí đă tỏ ra thiếu mạnh dạn, ngần ngại, e dè.

    Lịch sử cũng đă cho ta thấy đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc khai đạo cũng chỉ là một nhóm rất nhỏ. Chủ nghĩa cộng sản cũng vậy.

    Một lư tưởng muốn trở thành chân lư của thời đại phải đấu tranh lâu dài, thậm chí hàng trăm năm, hàng ngàn năm, phải trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh. Cuối cùng chân lư ấy mới thành ra đa số.

    Cái ǵ chúng ta đă xác định là chân lư, là chánh nghĩa, nhất quyết chúng ta không sợ lâu dài gian khổ, không sợ một cản ngại nào dù to lớn đến đâu, phải dám hy sinh chiến đấu để thực hiện cho bằng được lư tưởng đó. Vinh quang sẽ thuộc về những người chiến đấu như thế.

    Cho nên, ḥn đá thử vàng đối với ḷng kính Chúa yêu nước của những người Thiên Chúa giáo hiện nay, là cần phải có sự cố gắng và nỗ lực vượt bậc, vượt lên mọi trở ngại để phối hợp, hành động cùng với chánh quyền cách mạng và tất cả những người có thiện chí, kiên quyết đấu tranh cưỡng lại bọn phản động trong Thiên Chúa giáo. Điều đó không những có lợi cho dân tộc, mà c̣n có lợi ngay cho bản thân Giáo hội Thiên Chúa giáo. Có thể nói, đó là cuộc đấu tranh khẩn trương, gay go quyết liệt, bền bỉ trong ḷng dân tộc, trong nội bộ Thiên Chúa giáo và ngay trong từng con người của ḿnh, giữa chánh nghĩa và phi nghĩa. Trái lại, nếu c̣n đứng ra che chở, bênh vực như vụ Vinh Sơn chẳng hạn, th́ làm sao xóa bỏ nghi ngờ và giảm bớt thành kiến được?

    Tác giả có nhắc tới lời phát biểu ở hội nghị ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tại thành phố HCM vừa rồi của một đại biểu nào đó th́ “người Công giáo có cảm tưởng ḿnh là công dân hạng hai”.

    Chúng tôi biết rơ có một số người trong Thiên Chúa giáo, trước đây đă từng một thời được trọng dụng, là công dân số một của các chế độ cũ, đă từng là em út của “anh Ba (chỉ ông Ngô Đ́nh Diệm) và là chỗ dựa tinh thần của Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng trong chế độ mới, họ vẫn được rộng lượng khoan hồng, không hề có sự trả thù “đẫm máu” như bọn đế quốc và tay sai đă tác động tâm lư, như họ đă từng làm đối với nhân dân và cách mạng. Tưởng rằng điều đó sẽ giúp cho họ tỉnh ngộ, từ bỏ những lỗi lầm cũ. Nhưng thực tế họ vẫn chưa nhận thấy sai lầm, chưa chịu cải tạo, ngược lại c̣n phạm thêm sai lầm mới th́ làm sao tránh khỏi nghi ngờ và làm sao chấp nhận để họ giữ những vị trí then chốt trong sinh hoạt quần chúng tín đồ và trong các giáo hội được. Trong trường hợp đó, nếu họ cảm thấy ḿnh là công dân hạng hai th́ cũng không có ǵ là quá đáng và cũng chỉ đúng riêng với một thiểu số có thái độ và có tư cách như họ thôi. Tuy nhiên không ai muốn có chuyện như thế. Điều chúng ta mong muốn và đ̣i hỏi ở họ là phải tỏ ra xứng đáng với ḷng tin cậy, phải trải qua sự nỗ lực bản thân tự cải tạo ḿnh. Có từ bỏ lỗi lầm cũ th́ họ mới xứng đáng là công dân b́nh đẳng với mọi người công dân khác. Có thể nói thẳng, không cần ǵ phải giấu giếm, là quả có sự phân biệt đối xử với một số người không chịu cải tà quy chánh, không chịu làm theo lẽ phải và không làm đúng với đạo lư chân chính. Tất nhiên, đối với tuyệt đại đa số đồng bào Thiên Chúa giáo, th́ không thể có bất cứ sự phân biệt nào về mặt chính trị cũng như về mặt kinh tế. Nếu c̣n một ít tồn tại nào đó ngoài ư muốn của chúng ta, th́ chúng ta cần phải t́m ra nguyên nhân của nó và cùng nhau đoàn kết, b́nh tĩnh, bền bỉ khắc phục những tồn tại đó như trên đă nói.

    Trong văn bản, tác giả nêu cụ thể về một số thiếu sót ở nơi này nơi khác của một số cán bộ chánh quyền cách mạng; cũng như đ̣i hỏi phải thấy mặt tốt của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Thiếu sót của chánh quyền cách mạng, cũng như mặt tốt của đồng bào theo đạo không phải là không có. Thậm chí thiếu sót của chánh quyền cách mạng ở nơi này hay nơi khác có cái c̣n nghiêm trọng, không phải chỉ đối với chánh sách tôn giáo, mà c̣n thiếu sót trong vấn đề tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong vấn đề kinh tế v.v… và chúng ta cố gắng khắc phục. Đúng là ta phải đánh giá một cách rất khách quan như thế. Chúng ta phải có sự nhận xét thật khách quan, có trước, có sau, với quá tŕnh và bối cảnh lịch sử của nó. Lại phải t́m ra nguyên nhân của nó để phát huy cái tốt, sửa chữa khắc phục cái xấu. Tuy nhiên, nếu tác giả đ̣i hỏi một sự đánh giá khách quan, th́ tác giả nhất thiết phải không những thấy mặt thiếu sót của cách mạng, lại phải thấy mặt tốt, mặt đă làm được của cách mạng, nhất là trong vấn đề tự do tín ngưỡng. Thấy mặt tốt của giáo hội lại phải thấy mặt c̣n tồn tại, c̣n thiếu sót của giáo hội. Chỉ có đánh giá một cách toàn diện và khách quan như thế, mới t́m ra chân lư và mới đoàn kết được. Chúng tôi chỉ đ̣i hỏi ở tác giả có một nhận xét khách quan, cũng như tác giả đ̣i hỏi ở chúng tôi, những người cách mạng.

    Vấn đề thứ hai, theo tác giả th́ v́ không có tự do tín ngưỡng, cho nên mới có vụ Vinh Sơn, vụ chống đối của bọn phản động trong Phật giáo Ấn Quang, vụ phá hoại đời người nữ tu sĩ đă nêu trong Thông báo số 4/TB-UB ngày 6-4-1977 của Ủy ban Nhân dân Tp HCM. Tác giả nói: “Theo thiển ư của tôi, nếu c̣n tựa vào tôn giáo để xách động này khác là v́ chưa có tự do tín ngưỡng đó thôi”.

    Luận điểm như trên thật ra không có ǵ mới cả, nó đă có từ lâu lắm rồi, có nói lại cũng chỉ là lập lại luận điệu của bọn đế quốc Pháp và Mỹ.

    Đế quốc Pháp khi xâm chiếm nước ta từ thế kỷ 19 cũng đă từng lấy lư do v́ vua quan Việt Nam chống Chúa giết đạo nên cần bảo vệ đạo, bảo vệ Chúa mà đem quân đến “khai hóa văn minh” cho nước ta. Một thế kỷ sau, đế quốc Mỹ cũng không có một luận điệu nào khác hơn là nhân danh tự do, nhân danh đạo Chúa với Hồng y giáo chủ Spellman để mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Rốt cuộc chúng đă thất bại nhục nhă. Bây giờ tác giả hai bản văn trên cũng lại nhân danh tự do tín ngưỡng để bênh vực cả cho những việc làm phi nhân phi nghĩa, phá hoại đời sống nhân dân như vụ Vinh Sơn, với vụ in bạc giả; như vụ phản động trong Phật giáo Ấn Quang với vụ phá hoại đời nữ tu sĩ, rồi cho là không có tự do tín ngưỡng nên mới xảy ra những chuyện như thế.

    Chúng tôi cho rằng: người ta không thể nhân danh tự do tín ngưỡng, nhân danh Chúa, nhân danh Phật để cho phép ḿnh làm, hoặc là bênh vực cho những hành động bỉ ổi xấu xa nhất, phi đạo đức nhất. Chúa và Phật cũng như đồng bào các tôn giáo và những hàng giáo phẩm chân chính nhất định sẽ không cho phép làm như thế. Những người làm như thế, bênh vực như thế, không những làm mất phẩm giá của ḿnh, mà c̣n làm mất phẩm giá của đồng đạo, của đạo lư mà chính tác giả hai bản văn đang tín ngưỡng. Làm như thế là nhân danh tự do tín ngưỡng để khuyến khích mọi hành động phản cách mạng, mọi hành động xấu xa phi đạo đức. Chúng ta tin tưởng đồng bào có đạo cũng như các hàng giáo phâm chân chính trong tôn giáo sẽ kiên quyết chống lại những thái độ và hành động như thế.

    C̣n đối với cách thức lén lút phổ biến hai bản văn này không những là phi pháp mà rơ ràng có ư đồ đen tối và đă bị bọn xấu, bọn phản động lợi dụng. V́ rơ ràng nó không thể có ảnh hưởng nào khác hơn là làm sâu sắc hơn những thành kiến và gây thêm những nghi ngờ chia rẽ từ cả mọi phía. Bọn đế quốc và tay sai, bọn phản động chắc không mong ǵ hơn thế. Chúng đă lợi dụng hai bản văn này để chống chánh quyền cách mạng, và kích động những mặt tiêu cực; chúng tán tụng những lời phát biểu này là “dũng cảm”, nào là “dám nói lên sự thật”. Chúng xuyên tạc vu khống những người công giáo có thiện chí, đóng góp vào sự đoàn kết dân tộc, cho họ là thiếu “dũng cảm”, không dám nói lên “sự thật”.

    Khắc phục mọi khó khăn để xóa bỏ những thành kiến, chống sự chia rẽ của bọn xấu, bọn đế quốc mới thực sự là dũng cảm. Cái dũng cảm như thế mới cao đẹp, là v́ nó nhắm vào mục đích cao đẹp. Do đó, chúng ta hết sức hoan nghênh những người trong đồng bào Thiên Chúa giáo và trong hàng giáo phẩm, đă bất chấp khó khăn, bất chấp mọi lời dèm pha vu khống thâm độc mà đóng góp vào sự đoàn kết dân tộc. Đấu tranh cho đoàn kết dân tộc là dũng cảm và phải dũng cảm trong đoàn kết; chúng ta quyết không sợ khó khăn, không sợ những lời dèm pha. Chúng ta quyết v́ chân lư mà phấn đấu và chân lư cuối cùng sẽ thắng.

    C̣n sử dụng sự “dũng cảm” của cá nhân nào đó vào những hành động sai lầm th́ sự dũng cảm đó dù là vô t́nh nhưng kết quả thực tế vẫn là nối giáo cho giặc, chỉ càng gây thêm những tai hại đau đớn cho đồng bào giáo dân và cho dân tộc mà thôi. Kẻ thù nhất định sẽ rất vui mừng và không tiếc lời ca ngợi các kiểu dũng cảm đó, c̣n người thiện chí không khỏi thật sự đau ḷng.

    C̣n kẻ nào mưu đồ dùng sự dũng cảm vào những mục đích đen tối, th́ nhất định chỉ làm tăng thêm ḷng căm thù của đồng bào lương cũng như giáo và nhứt định chúng sẽ bị nhân dân căm  phẫn lên án và làm cho thất bại nhục nhă.

    Để tăng cường sự đoàn kết trong dân tộc ta, giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, chúng ta hăy cùng nhau b́nh tĩnh, sáng suốt, nhận rơ phải trái, để ngày càng đoàn kết hơn, nhằm khắc phục khó khăn to lớn do hậu quả của địch để lại, xây dựng đất nước ta giàu đẹp và hùng cường, nhân dân ta có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

    Mỗi người chúng ta, lương cũng như giáo, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục đồng bào, hiểu rơ cái đúng, cái sai, tích cực khẩn trương phá bỏ thành kiến nghi ngờ, do đế quốc và tay sai gây nên trong dân tộc ta hàng trăm năm nay. Chúng ta cần rất chủ động ngăn chận, giải thích, không để phổ biến những loại tài liệu có nội dung như thế. Chúng ta cần giải thích rơ phải trái cho đồng bào để đồng bào hiểu rơ đồng t́nh và nhứt trí cao đối với chúng ta.

    Xin gởi ông Tổng giám mục lời chào trân trọng.

 

    Tm UBMTTQVN/Tp HCM

    Chủ tịch

    (kư tên và đóng dấu)

    Nguyễn Văn Ch́

 

 

7- Văn thư khẳng định quyền tự do

điều hành chủng viện và đào tạo Linh mục ngày 17-05-1979

(phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 16-03-1979)

 

 

HỘI THÁNH CÔNG GIÁO                      Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

Ṭa Tổng Giám mục Huế                                       Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

   ARCHEVÊCHÉ HUE

           VIỆT NAM

      Số 10/79 TTGMH

Huế, ngày 17 tháng 05 năm 1979

Kính gửi: Ủy ban Nhân dân tỉnh B́nh Trị Thiên

Trích yếu: v/v phúc đáp Quyết định của UBND tỉnh

số 284-QĐ/NC ngày 16 tháng 3 năm 1979 về vấn đề chủng viện.

    Kính thưa quư Ủy ban,

 

    Ṭa Tổng giám mục Huế chúng tôi trân trọng kính tŕnh quư Ủy ban

    I. Theo Giáo lư Thánh Kinh

    Ơn thiên triệu làm linh mục hoàn toàn thuộc quyền Thiên Chúa và Hội Thánh có trách nhiệm xét đoán, xác nhận mỗi ơn thiên triệu để truyền chức thánh.

    II. Theo Giáo luật

    Các chủng viện Công giáo được thiết lập trên những nguyên tắc mà Hội Thánh đă quy định trong Giáo luật về Tiểu chủng viện và Đại chủng viện (Giáo luật các số 1358-1371).

    III. Theo Giáo lư Công đồng Vaticanô II

    Hội Thánh phải được tự do trong việc chọn lựa đào tạo chủng sinh, việc truyền chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển các linh mục (Sắc lệnh về đào tạo linh mục).

    IV. Theo truyền thống lịch sử về việc đào tạo linh mục

    Những nguyên tắc và quy luật trên là kinh nghiệm ngàn năm của Hội Thánh nói chung và của Giáo phận Huế từ mấy trăm năm qua nói riêng.

    Vậy nếu phải tổ chức các chủng viện Công giáo theo Quyết định của Ủy ban số 234/QĐ-NC đề ngày 10 tháng 3 năm 1979, th́ các chủng viện ấy sẽ đi ngược lại những điều trên.

    Ṭa Tổng giám mục chúng tôi trân trọng kính chào quư Ủy ban.

 

                                                                                   Philipphê Nguyễn Kim Điền

                                                                                          Tổng giám mục Huế

                                                                                         T. Nguyễn Như Thể

Bản sao kính gởi                                                               Tổng giám mục phó

Ủy ban MTTQVN tỉnh B́nh Trị Thiên

“để kính tường”

 

***********************

 

 

      Ủy ban Nhân dân                                   Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

      Tỉnh B́nh Trị Thiên                                           Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

        Số 284-QĐ/NC

Huế, ngày 16 tháng 3 năm 1979

QUYẾT ĐỊNH

Về việc giúp Giáo hội Thiên Chúa tổ chức lại các trường tôn giáo

theo đúng tinh thần Nghị quyết 297/CP của Hội đồng Chính phủ

    Ủy ban Nhân dân tỉnh B́nh Trị Thiên

- căn cứ Nghị quyết số 297/CP ngày 11 tháng 11 năm 1977 của Hội đồng chính phủ

- căn cứ đề nghị của khối Nội chính và Giáo dục

    Quyết định

    Điều 1 : Ủy quyền cho ông Nguyễn Kỳ trưởng ty khối đào tạo thay mặt Ủy ban Nhân dân tỉnh trực tiếp làm việc với Ṭa Tổng giám mục Huế về vấn đề trường đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 297/CP ngày 11-11-1977 của Hội đồng Chính phủ.

    Điều 2 : Trường phải nhằm đào tạo ra những người chuyên hoạt động tôn giáo tốt, đủ tŕnh độ và tư cách phục vụ đồng bào có đạo ngày nay là những người chủ tập thể của đất nước đang xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xă hội chủ nghĩa.

    Sau khi được tổ chức lại đúng theo tinh thần Nghị quyết 297/CP, và được Ủy ban Nhân dân tỉnh chấp thuận, trường sẽ được coi tương đương như một trường đại học chuyên nghiệp, do hệ đại học chuyên nghiệp quản lư, có chiếu cố tính chất nhà trường là một trường tôn giáo.

    Điều 3 : Chậm nhất đến 15-04-1979, mọi phương án mới về tổ chức và nội dung giảng dạy của nhà trường và về quy hoạch đào tạo v.v… phải được xây dựng xong tŕnh Ủy ban Nhân dân tỉnh xét để đến tháng 6-1979 trường mới sẽ chính thức thay thế cho các trường cũ.

    Điều 4 : Ông Nguyễn Kỳ, ty Giáo dục tỉnh B́nh Trị Thiên, ban Đại học chuyên nghiệp tỉnh và Ṭa Tổng giám mục Huế chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

                                                                                   Tm UBND tỉnh B́nh Trị Thiên

Nơi nhận:                                                                                 Tm Chủ tịch

- Ông Nguyễn Kỳ                                                                     Phó chủ tịch

- Ty Giáo dục chuyên nghiệp                                                       Vũ Thắng

- Ty Công an B́nh Trị Thiên                                                               

- Ủy ban MTTQVN tỉnh B́nh Trị Thiên

- Ṭa Tổng giám mục Huế

- Lưu NC - VP (9b)

 

 

8- Văn Thư xác định về Tiểu chủng viện Hoan Thiện

ngày 15-12-1979

(phúc đáp Quyết định của chính quyền ngày 13-12-1979)

 

 

HỘI THÁNH CÔNG GIÁO                      Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

Ṭa Tổng Giám mục Huế                                       Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

   ARCHEVÊCHÉ HUE

           VIỆT NAM

      Số 25/79 TTGMH

Huế, ngày 15 tháng 12 năm 1979

Kính gửi: Ủy ban Nhân dân tỉnh B́nh Trị Thiên

 

    Kính thưa quư Ủy ban,

    Sau khi tiếp nhận Quyết định của quư Ủy ban, số 2342-QĐ/UB đề ngày 13 tháng 12 năm 1979, Ṭa Giám mục chúng tôi xin xác định:

    1. Tiểu chủng viện Hoan Thiện ở số 11 Đống Đa, Huế, tự bản chất là một chủng viện Công giáo, tức là nơi thường trú của các tu sinh để tu học trở thành linh mục, điều mà mọi người xưa nay luôn luôn công nhận.

    2. Kể từ năm 1975 đến nay, các tu sinh ở đó đều luôn được chính quyền các cấp công nhận và đối xử với tư cách tu sinh.

    Ṭa Tổng giám mục chúng tôi trân trọng kính chào quư Ủy ban.

                                                                                              Tổng giám mục Huế

                                                                                       Philipphê Nguyễn Kim Điền

Bản sao kính gửi : Tổng giám mục phó giáo phận Huế, St.  Nguyễn Như Thể

Ủy ban MTTQVN tỉnh B́nh Trị Thiên                                   

“để kính tường”

 

************************

 

      Ủy ban Nhân dân                                   Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

      Tỉnh B́nh Trị Thiên                                           Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

       Số 2342-QĐ/NC

Huế, ngày 13 tháng 12 năm 1979

QUYẾT ĐỊNH

Công lập hóa trường Trung học Tư thục Hoan Thiện, 11 Đống Đa, Huế

    Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh B́nh Trị Thiên :

    - Căn cứ Chỉ thị số 221 của Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cải tạo nền giáo dục của Mỹ Ngụy nói chung và việc cải tạo trường tư nói riêng.

    - Căn cứ Thông tư số 34/TT ngày 22-09-1978 của Bộ Giáo dục hướng dẫn tiếp tục hoàn thành cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với các trường tư ở các tỉnh phía Nam.

    - Căn cứ đề nghị của ông Trưởng ty Giáo dục B́nh Trị Thiên.

    Quyết định

    Điều 1 : Nay công lập hóa trường Trung học tư thục Hoan Thiện ở số 11, Đống Đa, thuộc thành phố Huế để xử dụng vào mục đích giáo dục.

    Điều 2 : Ty Giáo dục có trách nhiệm giải quyết các thủ tục pháp lư đối với trường tư thục Hoan Thiện theo đúng thông tư số 34 ngày 22-09-1978 của Bộ Giáo dục.

    Điều 3 : Các ông Chánh văn pḥng Ủy ban Nhân dân tỉnh, Trưởng ty Giáo dục tỉnh, Ṭa Tổng giám mục Huế, ông Hiệu trưởng trường Trung học tư thục Hoan Thiện căn cứ quyết định thi hành.

                                                                             KT Chủ tịch UBND tỉnh B́nh Trị Thiên

                                                                                                 Phó chủ tịch

                                                                                          (kư tên và đóng dấu)

                                                                                                  Vũ Thắng

 

 

 

 

Suite

 

 ******


 

1] Không rơ con số chính xác là bao nhiêu ? Theo tập san Informations catholiques internationales, số 158 ra ngày 15.12.1961, và được trích dẫn lại trong Etudes Viêtnamiennes, số 53, năm 1978, trang 84 : số người tản cư vào Nam là 860.026 người ; 80%  (676.384) là người công giáo, tức một nửa dân công giáo miền Bắc. Cùng đi với họ, có 5 giám mục, 700 linh mục (2/3 số linh mục miền Bắc), hầu hết các tu sĩ nam và một phần lớn các tu sĩ nữ.

[2] Xem bài của nhà văn Trần Phong Vũ trong tập sách này.

[3] Trước khi làm giám mục năm 1960, lm Nguyễn Kim Điền đă gia nhập tu hội Tiểu đệ Charles de Foucault. Sau hai năm thực tập bên Sahara, ngài đă trở về Việt Nam sống ơn gọi ‘anh em hèn mọn của Phúc Âm’ giữa lớp người lao động, bằng ‘nghề’ đạp xích lô.

[4] Mỗi lần phát biểu về, Đc Điền ghi lại. Ngài viết :“Có thể khi phat biểu ứng khẩu câu văn và nhiều từ không được ‘nguyên văn’ như trong bài ghi lại. Nhưng tôi cam đoan về ư và thứ tự các ư nghĩ th́ trung thực”. Đức cha quá biết, mỗi lời phát biểu có thể bị người ta cố ư xuyên tạc.

[5] Về nội dung sự kiện, đây là chứng từ của HT Thích Quảng Độ : “T́nh h́nh mỗi ngày một căng thẳng và ngày 3.3.1977 đă đến điểm cao nhất khi cộng sản đến chiếm dụng cô nhi viên Quách Thị Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc Tự mà trước đó họ đă chiếm rồi và bây giờ một rạp chiếu bóng rất lớn đă được xây lên tại đó), giật tấm bảng mang danh hiệu GHPGVNTN và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ hôm ấy, nhân danh Tổng thư kư Viện Hoá Đạo, tôi đă kư một thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy sinh  để bảo vệ đạo pháp và danh dự Giáo hội. Đến ngày 6.4.1977, TT Huyền Quang và tôi cùng một số vị khác bị bắt vào nhà tù Phan Đang Lưu ở Bà Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi được biết cố thương toạ Thích Thiện Minh cũng bị bắt và đă chết một cách bí ẩn tại sở Công an Sài G̣n ở đường Trần Hưng Đạo” (Phật giáo Thống nhất/Thống nhất Phật giáo. Nxb Tin, Paris 1994, tr. 26)

[6] “Một mối hận thù, một mối đau thương” – Hoa Địa Ngục – Thơ Nguyễn Chí Thiện

[7] Từ ngữ của giáo sư Nguyễn Ngọc Lan trong nhật kư và những bài viết của ông.

[8] Câu trả lời này được chính đức TGM Nguyễn Kim Điền ghi lại trong một văn thư gửi tổng bí thư Nguyễn Văn linh ngày 25-3-1988.

[9] Sự phân biệt giữa chủ nghĩa phi nhân cộng sản qua thực tế hành động và những người lầm theo chủ nghĩa này, để có được tâm t́nh bao dung, chấp nhận trong mối tương giao giữa con người và con người, cho đến nay, vẫn c̣n là một vấn nạn gây tranh căi gay gắt giữa tập thể người Việt chống cộng ở hải ngoại, kể cả trong tập thể Công Giáo. Căm ghét và quyết tâm tận diệt chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít v́ tính lỗi thời và v́ bản chất tàn độc của nó là điều dễ hiểu. Nhưng có phải v́ thế mà người ta nhẫn tâm săn đuổi, truy sát đến người cộng sản cuối cùng, nhất là khi đương sự đă nhận ra sự lầm đường của ḿnh mà ăn năn hối cải? Trong mối liên hệ giữa người với người, nhất là trong tâm t́nh của Con Cái Chúa, chúng ta nghĩ thế nào về cung cách hành xử như thế?

[10] Nội dung những lời phát biểu này đă được chính đức cha Điền ghi lại thành văn ngày 19-4-1977, mà v́ nhiều nguyên nhân khác nhau, văn bản đă được phổ biến rộng răi trong ngoài giáo phận. Và cũng v́ thế, đă tạo nên những hệ lụy cho ngài trong một thời gian dài sau đó 

[11] Vụ nhà thờ Vinh Sơn bị công an thành phố Sàig̣n bao vây và bắt đi một số giáo sĩ, tín đồ xảy ra ngày 12/13- 02-1976, tức là chưa đầy một năm sau khi bắc quân thâu tóm được miền nam. Nếu tính từ ngày ấy cho đến khi đảng và nhà nước áp dụng biện pháp mạnh với Phật Giáo, cách nhau một năm. Nhưng tâm t́nh và thái độ của đức cha Nguyễn Kim Điền đối với hai biến cố hoàn toàn khác nhau. Theo t́nh lư thông thường, phản ứng của ngài đối với vụ nhà thờ Vinh Sơn, nếu không mạnh hơn vụ chùa Phật giáo th́ ít nhất cũng phải tương đương. Nhưng sự thật khác hẳn. Trong bản tuyên bố ngày 28-02-1976 vị lănh đạo tinh thần TGP Huế không có một lời bệnh đỡ những nạn nhân đồng đạo của ngài tại tổng giáo phận Sàig̣n (Xin coi nguyên bản trong phần phụ lục cuối bài này). Là vị chủ chăn hết ḷng với Giáo Hội, luôn quan tâm tới đời sống tinh thần cũng như vật chất của linh mục, tu sĩ và giáo dân, thái độ trên đây của ngài đối với vụ Vinh Sơn quả là khác thường. Để lư giải cho thái độ này, chúng ta bắt buộc phải nghĩ tới chủ trương ḥa hoăn tối đa trong suốt hai năm đầu của đức cha Điền: phải chăng ngài không muốn v́ một chuyện nhỏ có thể gây tổn hại cho một mục tiêu lớn? (Mục tiêu lớn đó là tạo được sự tin tưởng nơi tân chế độ ngơ hậu tránh những tổn hại cho đất nước cũng như Giáo Hội chỉ v́ những hoài nghi và tự ái). Và phải chăng v́ thế đức cha đă cố gắng nhẫn nhịn để mong có được sự đáp ứng tương xứng của nhà nước? Nếu quả đúng như vậy th́ thái độ cao thượng, v́ ích chung đó càng chứng tỏ thêm thiện chí của ngài.

[12] Trong 30 năm chế độ cộng sản thống trị toàn cơi Việt Nam, tính từ 30-4-1975 đến 30-4-2005, đức cha Nguyễn Kim Điền chỉ góp mặt trong hơn 13 năm. Thời gian tuy ngắn nhưng thái độ, lập trường và hành vi, ngôn ngữ của ngài biểu lộ trong giai đoạn ấy để bảo vệ niềm tin Công Giáo và khát vọng tự do của con người, vẫn c̣n vang động cho đến ngày nay. Và cũng cho đến ngày nay –và có thể c̣n kéo dài qua nhiều thế hệ nữa- những câu hỏi sau đây sẽ c̣n tiếp tục được đặt ra trong lương tâm người tín hữu Công Giáo chúng ta.

- Tại sao quan điểm và thái độ của người cầm đầu TGP Huế lại không được sự chia sẻ của các vị khác trong HĐGMVN, cụ thể là trường hợp đức cha Nguyễn Văn B́nh, TGM Sàig̣n, đến nỗi ngài đă phải chiến đấu cô đơn cho đến khi chết, mà chết một cách âm thầm, mờ ám với nhiều nghi vấn? (Sự cô đơn ở đây không có nghĩa là các giám mục tại các giáo phận khác không gặp khó khăn như Đc Điền. V́ ai cũng biết rằng cũng trong thời gian ấy, các Đc Chi, Đc Mai, Đc Lăng và nhiều vị khác cũng bị công an nhà nước theo dơi, thằng thúc, xỉ nhục, bắt đi ‘làm việc’, thậm chí phải chịu một h́nh thức quản chế gián tiếp ngay tại ṭa giám mục của các ngài. Tâm trạng bức xúc, cô đơn của đức TGM Nguyễn Kim Điền được hiểu là ngài không được sự chia sẻ nơi các đồng nghiệp của ngài trong cung cách phản ứng trước chính sách can thiệp thô bạo của nhà nước vào những vấn đề nội bô Giáo Hội. Thí dụ điển h́nh là trong khi Đc Điền quyết liệt không cho các linh mục dưới quyền ngài tham gia UBĐKCGYN, nhất là ứng cử vào các hội đồng tỉnh, thị… th́ hầu hết những nơi khác, kể cả TGP Sàig̣n, gần như đă không làm như vậy. Trong khi Đc Điền, mỗi khi có dịp, ngài đă công khai lên tiếng tố cáo chủ trương đàn áp tôn giáo, chà đạp nhân quyền của nhà nước th́ đường như tại các giáo phận khác các vị chủ chăn chỉ biết im lặng với thái độ cầu an. Đấy là chưa nói tới những lời tuyên bố ‘tốt đời đẹp đạo’ của một vài vị khác).

- V́ sao có hiện tượng mặc nhiên chia xé đau ḷng như thế giữa hàng giáo phẩm CGVN trong khi giáo lư của Đấng khai sinh kỷ nguyên Tân Ước chỉ có một?

Lư giải được những tiềm ẩn trong câu hỏi thứ hai, đương nhiên chúng ta sẽ có được câu trả lới đầy đủ cho thắc mắc thứ nhất.

Căn cốt của đạo Chúa Giêsu là t́nh Yêu Thương và đức Khiêm Hạ. V́ yêu thương thế gian, Chúa đă chấp nhận đóng đinh đến chết trên thập giá. V́ hiền lành, khiêm nhường thật trong ḷng, Con Một Chúa Trời đă cúi ḿnh rửa chân cho các môn đệ, và nhất là bằng ḷng để cho kẻ dữ phỉ nhổ, lăng mạ và đánh đ̣n tàn nhẫn trong đêm bị trao nộp. Trong Phúc Âm, hơn một lần Chúa Giêsu đă nói tới ḷng bác ái, gương thứ tha và thái độ nhẫn nhịn trước bạo lực. “Nếu có kẻ lột áo ngoài của anh em th́ anh em hăy cho luôn nó áo trong của ḿnh”, “Kẻ nào tát má phải anh em th́ anh em hăy ch́a má trái cho nó tát”, “Bác ái Công Giáo đ̣i buộc anh em phải yêu thương cả kẻ thù”,“Thày không nói tha thứ bảy lần, mà là 70 lần bảy”…

Lời Chúa trên đây là biểu tượng tuyệt cùng của t́nh bác ái Kitô giáo. Đấy là chuẩn mức, là khuôn vàng thước ngọc để lượng giá sự trung thành của kẻ đă chọn bước theo chân Đấng cứu thế. Nhưng trong mối tương quan giữa con người trong một xă hội hợp quần vượt trên quyền lợi cá nhân, nếu ứng dụng một cách tiêu cực, th́ những lời ấy trong một số trường hợp lại trở thành những thứ khiên mộc, những nơi trú ẩn an toàn cho những con chiên ghẻ náu ḿnh để biện minh cho thái độ hèn nhát, vô trách nhiệm của họ.

Đắm sâu vào bên trong và đàng sau những Lời răn dạy của Chúa Giêsu, những vấn nạn sau đây không thể không đặt ra cho con cái của Người: trường hợp bị lột áo ngoài chỉ xảy ra với riêng cá nhân ‘tôi’, v́ t́nh bác ái, v́ đức khiêm nhu, tôi sẽ không chống trả, và nếu cần, c̣n nhường luôn cả áo trong cho đối phương. Nhưng khi không phải ‘tôi’ mà là những anh em của tôi bị lột áo, th́ tôi là kẻ chứng kiến, sẽ phải hành xử ra sao? Cũng tương tự như thế, trường hợp người bị tát, không phải ‘tôi’ mà là những đồng bào, đồng đạo, thậm chí cả Giáo Hội của tôi, không lẽ tôi có thể nhẫn tâm đứng nh́n với con mắt của kẻ bàng quan? Cùng một suy tư như thế, thái độ bao dung của người tín hữu Chúa Kitô buộc tôi phải yêu thương, tha thứ không phải năm bảy lần mà yêu thương, tha thứ măi măi kẻ đă gây thương tổn cho cá nhân tôi. Nhưng khi những thiệt hại, đau đớn, mất mát xảy đến cho đám đông, cho tập thể, cho đất nước, cho Giáo Hội th́ hẳn rằng, cũng với tinh thần bác ái Công Giáo, tôi sẽ phải hành xử cách khác.

Khơi dẫn từ những suy tư kể trên, chúng ta sẽ thâm hiểu được cảnh ngộ và tâm huống cô đơn của đức cha Điền trong suốt 13 năm phải một ḿnh chống chọi với đảng và nhà nước CSVN.

[13] Lời phát biểu này cũng được chính đức cha chép lại thành văn ngày 24-4-1977.

[14] Xin coi phần II đề cập nội dung Tờ Tŕnh III của ông Nguyễn Văn Chất.

[15] Xin lưu ư: trong tất cả những văn thư gửi nhà nước CS, kể cả MTTQ, đức cha Điền không bao giờ thông qua UBLLTQ/NNCGVN/YTQ/YHB cũng như UBĐKCGYNVN về sau. Điều này cho thấy quan điểm dứt khoát, chuyên nhất của ngài đối với tổ chức ‘ăn theo’ đảng và nhà nước kể trên.

[16] Trích một đoạn trong thư gửi từ Huế, Việt Nam ngày 29-3-2005 của lm Phan Văn Lợi: “Lúc ấy là vào năm 1977. Tuy chưa được Nhà nước chính thức “cho phép” mở lại, đại chủng viện (ĐCV) Huế vẫn quy tụ được 45 chủng sinh gốc Huế, vốn đă học ở đây từ trước 1975. Tôi (PVL) bấy giờ là lớp thần học 4, tức lớp lớn nhất. Chính quyền CS tỉnh Thừa Thiên muốn dựa vào nghị quyết 297/CP (trước nghị định 26/CP hiện hành) để loại bỏ một số chủng sinh mà lư lịch bị coi là ‘xấu’ khỏi Đại chủng viện. Họ thông báo cho ĐC Điền và ĐC Thể (khi ấy chưa từ chức) ư định này và mời hai vị tới cùng ‘làm việc’. V́ không chấp nhận nguyên tắc “giáo quyền và chính quyền cùng xét duyệt tư cách chủng sinh”, ĐC Điền và ĐC Thể đă công khai tỏ thái độ bằng cách khước từ không đến. Trước thực tế ấy, CS đă đơn phương hành động, ngang nhiên trục xuất 2/5 số chủng sinh (tức 18/45) tháng 5/1978. Số bị trục xuất phần nhiều là lớp lớn (trong đó có tôi, PVL). Khi ấy anh em chúng tôi, tuy bị Nhà nước trục xuất cách tức tưởi, vẫn cảm thấy an tâm và vui ḷng v́ chủ chăn của ḿnh đă can đảm đấu tranh bảo vệ quyền độc lập và quyền tự điều hành của Giáo hội, không đối thoại theo kiểu mặc cả đổi chác chân lư của Giáo hội với những quyền lợi trần thế do cộng sản đề nghị”.

[17] Có người nêu câu hỏI là: nếu phản ứng của đức TGM Huế được sự đồng thuận của tất cả GM các giáo phận và của HĐGMVN để chúng khẩu đồng từ th́ hẳnb rằng kết quả đă khác.

[18] Bản tin Tin Nhà ấn hành ở Pháp từ cuối năm 1990 đến đầu năm 2001.

[19] Ngôn ngữ nhân gian phổ biến tại Sàg̣n và được phản ánh trên tờ Tin Nhà.

[20] Coi phần trích dẫn Tường Tŕnh III của Nguyễn Văn Chất để thấy rơ bản chất phản GH của UBĐKYN.

[21] Xin coi nội dung Thư Chung trong phần phụ lục cuối bài để thấy rơ tâm t́nh yêu mến Hội Thánh và lập trường cương quyết bảo vệ đức tin của đức cha Điền.

[22] Đọc phần II để thấy rơ vấn đề qua những nhận định của Nguyễn Văn Chất.

[23] Trường hợp đức cha Nguyễn Như Thể từ chức phụ tá cho đức TGM Nguyễn Kim Điền lúc bấy giờ là một điển h́nh.

[24] “Đă có những giám mục chịu chết v́ bênh vực quyền lợi của Hội Thánh, nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi của con người không?” 

[25] Đọc nội dung Di Chúc trong phần phụ lục cuối bài.

[26] Từ ‘làm việc’ là ngôn ngữ của công an nhà nước thường dùng để chỉ những cuộc thẩm vấn dành cho những ai bị t́nh nghi dính líu vào những việc phi pháp theo quan điểm nhà nước.

[27] Từ Ban Tôn Giáo trong guồng máy Nhà Nước tới tổ chức tay sai UBLLTQ/NGCGVN/YTQ/YHB trước 75 và UBĐK/CGYNVN sau 75, nhằm khống chế GHCGVN, đều rập khuôn từ những tổ chức tương tự tại Liên Sô, Ba Lan và các chư hầu cộng sản ở Đông Au