T́nh yêu của người
trẻ Việt Nam vào giữa thế kỷ 20
( qua tác giả khúc
ca tiền chiến Trăng Mờ Bên Suối ) * Lê Mộng Nguyên
Trong thập niên 1940, tôi thích đọc Sách
Hồng và kế đó báo Phong Hóa rồi Ngày Nay cùng nhiều tiểu thuyết của Nhóm
Tự Lực Văn Đoàn, và nhân dịp được biết - qua ‘’Anh Phải Sống’’ của Khái Hưng
và Nhất Linh (1936) và ‘’Hai BuổI Chiều Vàng’’ của Nhất Linh (1937) - bài
thơ tuyệt tác T́nh Tuyệt Vọng do Khái Hưng dịch (theo thể lục bát) từ bản
Sonnet của Félix Arvers :
Ḷng ta chôn một khối t́nh
T́nh trong giây phút mà thành thiên thâu
T́nh tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà nguời gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Truyện riêng dễ giám một lần hé môi
Người dù ngọc nói hoa cười
Nh́n ta như thể nh́n người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối t́nh
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có ḿnh ở trong
Lạnh lùng, ḷng sẽ hỏi ḷng
Người đâu tả ở mấy gịng thơ đây
Hồi bấy giờ, thanh thiếu niên Việt Nam, nhất là các học sinh trường
cao đẳng tiểu học hoặc trung học ở Huế, không ai là không học thuộc ḷng
bài thơ dịch này v́ nó rất hợp với t́nh yêu lăng mạn của những người trai
trẻ trong những năm 1940-1945 là những năm mà Đông Dương bị Nhật chiếm đóng
nhưng chủ quyền vẫn thuộc nước Pháp của Thống chế Pétain (tương đối b́nh
an, xa lánh mùi bom đạn của thế chiến thứ 2) và Hoàng đế Bảo Đại vẫn c̣n
trị v́ nước An Nam. Tôi không ư giám rằng chuyện t́nh giữa Marie Nodier và
Félix Arvers (nằm trong nửa phần thế kỷ 19) là phản ảnh tâm hồn của trai
gái VN trong những năm 1940-1950, nhưng hoàn cảnh thời bấy giờ là một lư
do đưa đẩy một số thanh thiếu niên vào những mối t́nh vô vọng như đă nói
trong Sonnet d’Arvers. Ngoài phẩm chất vĩnh cửu của một mối t́nh bi đát,
âm thầm đă vượt qua không gian cùng thời gian để đến với chúng ta hôm nay,
bài ‘’T́nh Tuyệt Vọng’’ nói lên một cách đau khổ và xót xa mối t́nh mà nhà
thơ đă từng ôm ấp, chôn cất trong ḷng cho đến ngày tận thế. Người đẹp mà
thi sĩ đă yêu thầm trộm nhớ là Marie Nodier mà chàng được gặp nhiều lần
trong những buổi họp b́nh thơ văn (Séances de critique littéraire) do thân
phụ nàng là nhà văn Hàn Lâm Viện Học sĩ Pháp Charles Nodier (1780-1844) tổ
chức tại thư viện Arsenal (hồi ấy ông làm giám quản thư viện (conservateur
de bibliothèque) và đă quy tụ nhiều thi văn nghệ sĩ lừng danh như Victor
Hugo, Alfred de Vigny, Alfred de Musset, Lamartine và Félix Arvers là một
thi sĩ đă nổi tiếng ngay thời c̣n học sinh bậc trung học, được Giải Thưởng
Danh Dự Latin, Giải Nhất Pháp Văn trong những cuộc thi cạnh tranh hồi bấy
giờ. Ông tốt nghiệp trường Đại Học Luật Khoa và đă từng làm luật sư một
thời gian ngắn rồi xin thôi để có th́ giờ sáng tác cho thi ca văn nghệ. Có
lẽ tài năng của Félix Arvers đă được Charles Nodier chú ư nên gọi mời nhà
thơ đang lên vào làm thư kư cho ông và gia sư (précepteur) cho ái nữ
Marie. Bài Sonnet d’Arvers diễn tả mối t́nh tuyệt vọng của Félix Arvers (không
bao giờ bày tỏ luyến ái) với Marie Nodier phải đi lấy chồng năm 1833 và
trở thành bà Marie Mennessier-Nodier .
T́nh yêu lăng mạn có thể đi đến tận cùng, cực hạn, nghĩa là đến phản
bội (hay phụ phàng, phụ ước), nhưng lúc nào cũng với một tâm hồn vô tội,
tinh khiết của người trẻ VN vào giữa thế kỷ 20. Tôi muốn diễn tả cái t́nh
yêu này qua bài Mỵ Châu Trọng Thủy mà câu chuyện thê thảm lấy từ cổ sử
Việt Nam (nhiều đoạn có tính cách hoang đường)... Màn ca kịch ngắn được viết
vào khoảng năm 1947, nghĩa là 2 năm trước bài ‘’Trăng Mờ Bên Suối’’, lúc
tôi vừa ra khỏi tuổi ấu thơ thường say mê đọc đi đọc lại lịch sử nước nhà...
Tôi biết ơn học giả Trần Trọng Kim, tác giả Việt Nam Sử Lược với lối hành
văn lưu loát đă làm tôi nhiều lần say đắm, hoàn toàn quên hiện tại trong
cuộc hành tŕnh về dĩ văng... Tôi quyết chọn giữ mối t́nh bất diệt giữa
Trọng Thủy và Mỵ Châu dưới đời nhà Thục để làm hứng cảm cho bài hát. Hơn
nữa, thời ấy có thể xem như là nguồn gốc nước ta mà cũng là khởi thủy cuộc
diễn tiến của dân tộc Việt Nam. Viết theo cung ré mineur, nhịp Tư 4/4 hay
C, hành nhạc Lento expressivo, Đoạn Đầu diễn tả oan hồn MỴ CHÂU hiện lên
rất mờ ảo sau khi bị cha già chém :
Chiều dần buông trong khói sương chiều vương
Ngày tàn mơ nhắc chi thêm buồn ḷng ta
Nh́n xem trăng lên vờn ánh sương ngà
Chàng nơi đâu, bóng chàng đâu ? em mong chờ !
Hận một đời thôi từ nay giấc mơ xưa c̣n t́m đâu, bóng em phai mờ
Trong Đoạn Hai :
Mặc xiêm giáp cỡi trên ḿnh ngựa, Trọng Thủy theo dấu
lông ngỗng của vợ rắc. Đến núi Mộ Dạ th́ được tin nàng chết, chàng buồn
rầu, xuống ngựa, than khóc t́m lại người xưa :
Chiều nay đi theo vết nàng đâu đây
Dừng cương ta trông chim chiều xa bay
Bóng nàng đâu ? Bóng nàng đâu ? Ta mong em bao ngày, nào em đâu ?
Hàng thùy dương vương sầu đau ôm hờn, đôi ta biệt ly sầu
Mỵ Châu ơi ! Bóng nàng đâu ? Bóng nàng đâu ? Ta mơ rồi !
Từ nay dưới suối vàng, t́nh duyên thôi ĺa tan !
T́nh ngàn năm thôi từ nay vết dấu xưa c̣n t́m đâu, bóng ai phai mờ
Để thấm hiểu t́nh yêu của người trẻ Việt Nam vào giữa thế kỷ 20,
trong những năm 1940-1950 mà văn hóa, văn chương và văn nghệ nước ta bị
nhiều ảnh hưởng Âu Tây v́ trong sự đụng chạm của hai nền văn hóa và văn
minh Á Âu trên bán đảo Đông Dương, các nhà văn lăng mạn Pháp nói riêng và
Tây phương nói chung, với sự tán dương đời sống cảm t́nh, khuyến khích mạnh
mẽ những thế hệ văn nghệ sĩ lúc bấy giờ trong cuộc chiến đấu đả phá những
phong tục lỗi thời của Khổng giáo đă làm liệt bại (trong quá khứ) biết bao
tài năng đầy hứa hẹn. Nhà phê b́nh Trương Tửu, trong Tao Đàn, số 1, tháng
3-1939, tr. 25, đă không do dự đưa ra những lời nhận xét xác đáng như sau :
Chủ nghĩa cá nhân và văn chương lăng mạn của Tây phương ồ đến xứ ta như
cuồng phong, lôi cuốn các tâm hồn. Trên miếng đất t́nh cảm đă cầy sẵn của
chủng tộc Việt Nam, hai hóa vật tinh thần ấy đủ điều kiện để bắt rễ và nẩy
nở. Các loại thanh niên sinh trưởng trong cảnh đồi bại của Nho giáo, đều
xa lánh óc duy lư để đi thẳng tới mỹ thuật và ái t́nh. Họ quên lư trí. Họ
chỉ c̣n biết có thiên nhiên và trái tim. Những nhà văn lăng mạn như Song
An (bút hiệu của Hoàng Ngọc Phách, tác giả Tố Tâm 1925), Khái Hưng (Hồn Bướm
Mơ Tiên), Nhất Linh (Đoạn Tuyệt, 1935), Lưu Trọng Lư (Tiếng Thu : ‘’Con
nai vàng ngơ ngác / Đạp trên lá vàng khô’’, hoặc : ‘’Hỡi xuân hồng, ta
muốn cắn vào ngươi... ‘’,1939), Lan Khai, Thế Lữ (Mấy Vần Thơ, 1935 và MVT
tập mới 1941 : ‘’Anh đi đường anh, tôi đường tôi / T́nh nghĩa đôi ta có
thế thôi / Đă quyết không mong sum họp măi / Bận ḷng chi nữa lúc chia
phôi’’) là tâm thức của xu hướng ấy. Tôi xin thêm Xuân Diệu, tác giả THƠ
THƠ (1933-1938) : ‘’Làm sao cắt nghĩa được t́nh yêu ! Có nghĩa ǵ đâu, một
buổi chiều / Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt / Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu
hiu... [V́ Sao] , đă làm điêu đứng biết bao quả tim của người trẻ VN lúc
bấy giờ v́ :... ‘’Yêu, là chết ở trong ḷng một ít, V́ mấy khi yêu mà chắc
được yêu ? Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu ; Người ta phụ, hoặc
thờ ơ, chẳng biết’’ [YÊU]...
T́nh yêu của người trẻ VN vào khoảng giữa thế kỷ 20 (qua tác giả Trăng
Mờ Bên Suối) là một t́nh yêu lăng mạn, đau khổ tận cùng (tôi đă nói trên)
tương tự ‘’Nỗi Thống Khổ của người trai trẻ Werther’’, 1774 (Les
souffrances du jeune Werther) trong tiểu thuyết của nhà văn hào Đức
GOETHE). Sách này được lừng danh khắp Âu châu, đă làm hứng cảm cho nhiều
nhà văn khác và cũng là nguyên do của nhiều vụ tự sát ‘’theo kiểu
Werther’’ (suicides à la Werther). Tôi nhớ đến tiểu thuyết Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách mà nhân dịp nhà học giả Đào Đăng Vỹ đă viết :
‘’Về phần Tố Tâm, nếu nàng cam chịu và ưng thuận sự hôn phối (ép buộc) để
chết trong ḷng v́ buồn đau, những người trai gái khác thời bấy giờ ưa tự
sát hơn đặng thoát khỏi cái số phận mà gia đ́nh định trước. Nếu ta mở
những trang báo trong những năm 1925-1930, ta thấy đăng nhiều tin về thiếu
nữ tự vẫn bằng cách nhảy xuống nước lăng mạn của hồ Trúc Bạch và hồ Hoàn
Kiếm ở Hà Nội’’ (Evolution de la littérature et de la pensée vietnamienne
depuis l’arrivée des Français jusqu’à nos jours, Hué, Tao Đàn, 1949, pp.
17-18). Alfred de Musset (1810-1857) trong một tiếng kêu, muốn nói lên cái
đẹp của khổ đau : ‘’Les plus désespérés sont les chants les plus beaux. Et
j’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots’’ : Những lời tuyệt vọng
nhất phải chăng là những lời ca tuyệt tác ? Tôi biết có nhiều vần thơ bất
hủ mà chỉ là tiếng khóc nức nở của linh hồn. Cũng như Đông Hồ (tự Trác
Chi), tên thật Lâm Tấn Phát với bài lệ kư ‘’Linh Phương’’ khóc vợ (1928) :
Chăn gối cùng nhau những ấm êm
Bỗng làm ngọc nát, bỗng châu ch́m
Đầm đ́a giọt thảm khăn hồng thấm
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng t́m
H́nh dạng mơ màng khi thức ngủ
Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm
Bảy năm vui khổ, ngh́n năm biệt
Sớm gió, chiều mưa lắm nỗi niềm
(Nam Phong số 128, th. 4-1928)
hay bà Tương Phố khóc chồng với ‘’Giọt Lệ Thu’’ viết trong mùa thu năm
1923 (đăng báo Nam Phong số 131, th. 07-1928), bằng thơ :
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu ḷng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
T́nh thu ai để duyên em bẽ bàng
hoặc bằng văn xuôi : ‘’Anh ơi ! em nghĩ đến : về với anh mùa thu, tiễn đưa
anh mùa thu, mất anh lại cũng mùa thu, cho nên năm năm cứ đến độ thu sang,
th́ em lại bồi hồi nhớ trước, tưởng xưa, mà ḷng thu một tấm cũng ngây ngất
sầu ! ... Cái mùa thu tiễn biệt và vĩnh biệt cũng đă là nàng thơ cho bao
nhiêu nhạc sĩ nặng t́nh cảm hiện giờ, riêng tôi đă viết năm 2001 (để đặc
biệt tiếp nối cuộc t́nh lăng mạn của TMBS trong những năm 1940-1950) bài
Chiều Vàng Năm Xưa mà Tuyết Dung đă tŕnh bày với giọng ca tuyệt vời trên
mạng lưới cùng trong buổi ‘’Gặp Gỡ Ngô Thụy Miên’’ ngày 25 th.5-2002 tại
Mộc Lan Trang (Antony) và trong chiều ‘’Bên Trời Tưởng Nhớ’’ ngày 15
th.6-2002 tại nhà hàng Chiều Tím (Paris), do CLBVN hải ngoại tổ chức, có
Đoạn Cuối như sau : Chiều vàng năm nay khi mùa thu hiu hắt nhớ nhung bao
h́nh bóng. T́m người yêu đi trong bóng sương, hồn nước khóc âm thầm chờ
mong. Lá vàng rơi chứa chan ngoài song.
Cái đau khổ bởi t́nh yêu của người trẻ VN nhiều lúc tương tự cái buồn
cô quạnh của LAMARTINE qua bài ‘’L’Isolement’’ (trích thi tập
‘’Méditations Poétiques’’, 1820) mà trong đó nhà thi hào Pháp phát biểu sự
dửng dưng của ông đối với vũ trụ và ngay cả với cuộc đời (sau cái chết của
người t́nh muôn thuở ELVIRE ngày 18 tháng 12 năm 1817). Thi nhân muốn bày
tỏ nguyện vọng nhiệt thành rời bỏ trái đất, một kỳ vọng viễn vông trong hạnh
phúc lư tưởng mà ông sẽ đạt được hoặc t́m lại trong không trung
(espaces) : ‘’Que me font ces vallons, ces palais, ces chaumières, Vains
objets dont pour moi le charme est envolé ? Fleuves, rochers, forêts,
solitudes si chères, Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé !’’ :
Trước thung lũng, đền đài và nhà lá
Ngoại vật trống không, mê ảo rụng rời
Cả những sông, núi đá, khu rừng thẳm
Từng ẩn núp mộng tưởng với cô liêu
Nay thiếu bóng một người yêu muôn thuở
Tâm hồn ta như hoang vắng, quạnh hiu
Nhà văn tiền phong cho phong trào lăng mạn Pháp ở VN không ai chối
căi được là Khái Hưng, tác giả Hồn Bướm Mơ Tiên (nhà xb ĐờI Nay, Hanoi
1933). KH mở đầu một thời kỳ của tiểu thuyết lăng mạn VN với nhiều phản hưởng
tới các nhà văn, thơ, nhạc và thanh thiếu niên VN sau này. HBMT diễn tả
cuộc xung đột thường xuyên giữa t́nh yêu và tôn giáo mà hai đứa trẻ yêu
nhau được sống một cách sâu đậm. Nhưng kết cục họ phải hy sinh mối t́nh
này để nhường chỗ cho một hạnh phúc cao cả hơn và đồng điệu về mặt tâm
linh. T́nh yêu giữa Lan và Ngọc v́ thế trở thành phi thường : hai người đều
từ bỏ chuyện hôn phối để được gần nhau tha thiết hơn, để sống vĩnh cửu với
nhau trong tâm hồn và lư tưởng. Lẽ dĩ nhiên là Khái Hưng đă viết một tiểu
thuyết rất lăng mạn cho thanh thiếu niên VN thời bấy giờ là thế hệ trẻ đă
đọc nhiều, đă thông cảm nhiều với CHATEAUBRIAND và LAMARTINE. Lan từ bỏ ái
t́nh v́ đă làm một thề nguyện với mẹ nàng lúc hấp hối... lời thề nguyện
đă thốt ra trong những trạng huống nhắc nhở ta lời thề nguyện của Atala (của
Chateaubriand, 1801). Ngoài ra, sự hy sinh của Lan có thể nói là khá gần
sự hy sinh của Jocelyn (của Lamartine, 1836) mà việc cung hiến giáo chức
(consécration sacerdotale) đă làm tránh khỏi cuộc t́nh ái của con người.
Để trở lại tác giả TMBS là người trai trẻ đă say mê những bản nhạc
tiền chiến (nghĩa là trước chiến tranh Quốc gia - Cộng sản bùng nổ sau
Hiệp Định Genève kư ngày 20-7-1954) v́ toàn dựa trên hứng cảm t́nh yêu
lăng mạn rất tiêu biểu tâm hồn thanh thiếu niên VN hồi bấy giờ, như ‘’Giọt
Mưa Thu’’ và ‘’Con Thuyền Không Bến’’ của Đặng Thế Phong, ‘’Đêm Đông’’ của
Nguyễn Văn Thương, ‘’Biệt Ly ‘’ của Dzoăn Mẫn, ‘’Bến Cũ’’ của Anh Việt’’,
‘’Thiên Thai’’ của Văn Cao, ‘’Ngày Về’’ của Hoàng Giác... vân vân. Dạo ấy,
tôi mới 14-15 tuổi lúc Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trao ấn kiếm ngày 25
tháng 8 năm 1945 cho 2 đại diện Việt Minh, trong một buổi lễ tại Điện Kiến
Trung. Tôi bùi ngùi, nước mắt rưng rưng khi nghĩ đến một thời đại đă qua.
Lúc tôi c̣n thơ ấu (6, 7 tuổi, tôi không c̣n nhớ rơ), đă đôi lúc rung cảm
trước sắc đẹp quí phái của Nam Phương Hoàng Hậu và đă yêu thầm trộm nhớ
nàng như gợi ư trong bài Sonnet d’Arvers. Giữa 3 thứ vở học tṛ mang ảnh
b́a vua BĐ, Hoàng tử Bảo Long và Nam Phương Hoàng Hậu, tôi lúc nào cũng kiếm
mua cho được vở Nam Phương. Sau khi được bầu ngày 5-12-1997 làm Viện sĩ
Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp để thay thế cựu hoàng Bảo Đại mất
ngày 31-07-1997, cái thông điệp thứ hai của tôi tại HLV ngày 19 th. 11 năm
1999, lấy tên ‘’Bảo Đại, dernier empereur et chef d’Etat du Vietnam’’ (BĐ,
vị Hoàng đế cuối cùng và Quốc trưởng nước Việt Nam). Sau 45 phút thuyết
tŕnh, tôi kết luận như sau :
‘’... Hoàng Đế BĐ đă mất v́ một bệnh ung thư óc năo (tumeur au cerveau)
tại nhà thương Val-de-Grâce ở Paris, ngày 31 tháng 7 năm 1997 trong sự
dửng dưng của mọi người. Phu nhân Hoàng Hậu Nam Phương mà chúng ta ca tụng
cách cư xử rất xứng đáng vào những đầu năm chiến tranh Pháp-Việt Minh
1945-1946 trong lúc phu quân BĐ vắng mặt nước nhà, cũng đă tạ thế trong cô
quạnh ngày 14 tháng 9 năm 1963 và được mai táng tại Chabrignac (Corrèze)
trong một nghĩa địa nằm trên đồi, đối diện với một Nhà Thờ. Cựu Hoàng và
Hoàng Hậu đă làm ǵ để phải ĺa đời một cách thê thảm như thế ? Đối với
vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu, tôi có động ḷng thương, và bây giờ
không phải là một luật gia hoặc chính trị học mà là một nhà thơ hân hạnh
viết tặng ông và bà (Hoàng Hậu tuyệt mỹ trong thời thơ ấu của tôi) những
vần xúc cảm (bằng tiếng Pháp) :
Tu es un Ange venant du Paradis
Qui n’a fait qu’une brève apparition ici
Dans notre jardin de musique et de poésie
Et de reprendre ta route à tire-d’aile, à l’infini
Laissant ta famille et tes amis dans l’affliction
Ô Roi, ô Reine, pourquoi es-tu parti(e) avant l’heure
Dans l’autre monde, à mi-chemin de ton bonheur ?
Pour te dire adieu, je n’ai pu écrire de longs vers
Pour te pleurer, je n’ai rédigé que des phrases égarées
Je ne t’ai connu(e) qu’au travers de ta vie attristée
Et pourtant toute mon affectueuse amitié
T’est dédiée à présent et pour une éternité.
Người như một áng thiên thần
Qua vườn thơ nhạc một lần mà thôi
Rồi bay, bay măi, bay hoài
Cho gia đ́nh, bạn thơ ngoài tiếc thương
Người ơi, sao sớm lên đường
Qua bên thế giới lỡ làng trần ai
Viếng thăm không được thơ dài
Khóc thương chỉ có lạc loài vài câu
Biết ơn qua mấy thơ sầu
Yêu nhau một thuở như hầu thiên thu
Yêu Hoàng Hậu lúc 7, 8 tuổi, yêu nền Quân chủ đă tổ chức ngày lễ Vạn Thọ
trong Thành nội mà nhân dịp tôi được gặp người yêu trở thành thi thần
của TMBS, lúc núp mưa bên cạnh súng ‘’đại bác’’, lẫn lộn nam nữ học sinh
Khải Định-Đồng Khánh; yêu kinh thành Huế, yêu làng Phú Xuân (Hoàng Hoa
Thôn : ‘’Mờ mịt khói ch́ều nay t́m bóng làng / Tôi trở về đây tấm ḷng nát
tan / Nhớ ngày qua thắm hồng, bướm vàng bay khắp đồng mà ngày nay điêu tàn
v́ đâu ?’’) mà trong năm 1999 đă bị băo lụt tàn phá :
Em có về làng Phú Xuân xơ xác
Cạnh Huế thành sau băo lụt vừa qua
Em về thăm cánh đồng thu man mác
Lá chưa vàng, cây cối vẫn như xưa ?..
Sông B́nh Lục ngày qua anh ngóng đợi
Cứ mỗi chiều trong nắng đẹp chứa chan
Trong ánh mắt t́nh yêu em vời vợi
Buồn cho đời anh một kiếp lang thang
Anh ra đi trong một chiều ảm đạm
Tháng mười năm ngàn chín trăm năm mươi
Trong sương khói biên thùy, trong quên lăng
Bỏ gia đ́nh và đất nước thương đau
Em có về làng anh qua Chợ Cống
Cứ hằng năm băo lụt nước đầy đường
Cầu đă găy và t́nh xưa đă vỡ
Hai đứa ḿnh cách biệt chốn tha phương
Đó là bài thơ ‘’Em có về làng xưa ?’’ mà từ Paris (trong tháng 12-2000)
tôi gửi tặng nữ sĩ Hoàng Hoa, sau khi biết nàng vừa mới về thăm nhà ở Huế.
Nàng trả lời ngay (ngày 14-01-2001) từ Los Angeles, qua một thi bản đượm
t́nh nhung nhớ ‘’Em Có Về’’ :
Em có về thăm sau cơn băo lụt
Trước năm hai ngàn buồn lắm anh ơi
Quê hương ḿnh nay xơ xác tả tơi
Cánh đồng đẹp ngày xưa không c̣n nữa
Túp lều tranh thay lá vàng rực rỡ
Gió thu về rên siết giữa hư không
Gịng sông xưa B́nh Lục vẫn chờ trông
Đă tan vỡ bóng h́nh ai thuở trước
Ngày anh đi em chưa từng mộng ước
C̣n nhảy dây chơi đánh thẻ bỏ khăn
Có biết đâu anh tâm trạng giá băng
Rời hương lửa đi vào miền tuyết lạnh
Ngày em về cũng bầu trời xanh ấy
Mà vườn anh cây bồ kết không c̣n
Vào từ đường thắp nén hương niệm tưởng
Cho hương ḷng lan tỏa khắp muôn phương
Bài Trăng Mờ Bên Suối được viết cách đây hơn 50 năm vào một ngày
không mưa tại Huế để đánh dấu một mối t́nh bất diệt của hai đứa trẻ yêu
nhau trong thời khói lửa... nhưng với linh tính sẽ xa nhau sau một đêm
gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối, dưới ánh trăng mờ... T́nh yêu lăng mạn được
bối cảnh lúc bấy giờ với chiến tranh bùng nổ giữa quận đội Quốc gia (dưới
thời Cựu Hoàng Bảo Đại, Quốc trưởng kiêm Thủ tướng Chính phủ thành lập
ngày mồng 1 tháng 7 năm 1949, với Tướng Nguyễn Văn Xuân, Phó Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng), dư luận xôn xao bàn tán về cuộc tổng động
viên sắp ban hành... Với cây đàn lục huyền cầm Y Pha Nho chiều hôm 13
tháng 11 năm 1949, tâm hồn xao xuyến và dưới một sự xúc cảm dạt dào, tôi
đă viết vào khoảng 30 phút cả nhạc lẫn lời, trong một cuốn vở học tṛ và
trên những trang giấy có phân ly (papier millimétré) đầy kư chú những bài
học Lư Hóa ở trường Khải Định, một tác phẩm mà sau này trở thành bất hủ (cũng
như cuộc t́nh dang dở đă in dấu trong lời thơ và ư nhạc). Ai là nhạc thần
trong sự sáng tác bài nhạc này đă làm cho ngay tác giả lúc nghe lại chiều
hôm ấy cũng phải rụng rời con tim ? Nhiều người đă hỏi tôi và cách đây hai
năm, trong cuộc phỏng vấn Lê Mộng Nguyên trên Đài TNVN ở Montréal chiều
hôm 02-04-2000, nữ danh ca Huyền Châu muốn biết (tôi xin trích) trong trường
hợp nào và những t́nh cảm, những kỷ niệm nào đă cho tác giả nguồn cảm hứng
để sáng tác nhạc phẩm muôn thuở TMBS mà nàng đă được hân hạnh và vinh dự
tŕnh bày đêm ca nhạc 01-04-2000 để vinh danh nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên ?
Linh tính là một sự đau khổ trong tương lai v́ phải rời quê cha đất
tổ qua năm sau (nghĩa là cuối năm 1950) cùng với óc tưởng tượng dồi dào
của một học sinh 19 tuổI đă làm cho tôi biến hóa những cuộc gặp nhau bên
bờ sông Hương (sau Bia Đá) và trên đường Nam Giao (nơi trú ngụ của cô gái
Huế người hoàng tộc mới tuổi dậy th́), những buổi chiều vàng mặt trời sắp
xuống, thành một gặp gỡ cuối cùng bên bờ suối dưới ánh trăng mờ, mà ngay
hoa lá cũng động ḷng nức nở khóc nỗi chia ly : ... Ngày xưa c̣n đó trăng
nước mong chờ...
Tôi vừa viết xong th́ anh Lê Mộng Hoàng lúc ấy mới đi chơi về, hát
thử ngay với giọng ténor léger của anh rất xúc cảm, tôi quyết định gửi cho
danh ca Thu Hồ tŕnh bày ba bốn hôm sau trên Đài Phát Thanh Pháp Á (Radio
France-Asie) và ngay từ dạo ấy, TMBS đă sẩy tay tác giả để tự làm một cuộc
đời danh vọng, vượt cả không gian và thời gian, trải qua bao thế hệ... Nhạc
sĩ Trịnh Hưng (tác giả Tôi Yêu, Lối Về Xóm Nhỏ, Lúa Mùa Duyên Thắm) kể lại
cho tôi biết lúc anh c̣n là Bộ đội Việt Minh làm văn công, anh đă nghe
nhiều người hát TMBS v́ đó là một bài hát lăng mạn rất hợp với tâm trạng
người lính mặc dầu chính phủ cộng sản cấm hát nhạc ủy mị một cách gắt gao
trong quân đội (thư 14-03-1998)... Lẽ dĩ nhiên là TMBS từ dạo ấy đă dính
vào da tôi hơn cả một danh thiếp, người ta ai cũng chỉ biết tôi qua tác
giả TMBS ! Có người so sánh tôi vớI ALAIN-FOURNIER, tác giả LE GRAND
MEAULNES, chỉ có một tiểu thuyết mà cũng đủ nổi tiếng khắp năm Châu ! Nói
như vậy là không đúng v́ tôi làm nhạc từ năm 15 tuổi, bài Xuân Tươi dưới
bút hiệu Lan Đào chẳng hạn được đăng sau đó trên báo ‘’Quốc Gia’’ Đặc san
Tết Mậu Tư; cũng trong năm 1945, bài nghiên cứu lịch sử Phan Đ́nh Phùng
của tôi (kư tên thật LMN) được đăng trên ‘’Việt Nam Tân Báo’’ dưới thời
chính phủ Trần Trọng Kim (hiện giờ c̣n bảo tồn tại thư viện của Ecole
française d’Extrême-Orient tại Paris). Năm 18 tuổi tôi được cấp thẻ nhà
báo (carte de presse) sau khi đă viết thơ và nhạc cho Phật Giáo Văn Tập và
làm trưởng ban hợp ca thanh, thiếu niên Phật tử ở Huế. Chính tôi với tư
cách tác giả bài Mừng Khánh Đản đă điều khiển (theo lời yêu cầu của Ḥa
thượng Minh Châu) ban hợp ca này trong dịp khánh thành chùa Từ Đàm rất lớn
ở Huế vào năm 1948 :
Ngày rằm tháng tư nay về đây
Ngày trần gian chào đón Đức Phật Từ Tôn chúng ta
Ngàn ánh sáng tưng bừng lan trong nắng mai huy hoàng...
Năm 1948 cũng là năm tôi sáng tác Vó Ngựa Giang Hồ được nhà xuất bản Hương
Mộc Lan (chuyên in nhạc của các bậc đàn anh : Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Lê
Thương, Nguyễn Văn Thương, Hoàng Giác... ) nhận xuất bản và trả tiền nhuận
bút cho tác giả. Ngày 29 tháng 11 năm 1949 (hai tuần sau TMBS), tôi viết
Một Chiều Thương Nhớ như là tiếp theo của một mối t́nh dứt đoạn :
Rồi đây sương gió duyên kiếp lỡ làng
Trời xa xăm lắm em biết đâu t́m
Ḷng anh khắc khoải chờ mong
Mờ mịt trời Âu đôi lứa khóc âm thầm
Những bài tôi làm trong năm 1950 rất nhiều (trước khi từ giă cố hương vào
đầu tháng 10), rất phong phú, trong đó có : ‘’Nhớ Huế’’ :
Ai đi xa Huế làm sao quên được sông Hương
Con sông năm trước c̣n ghi bao t́nh nhớ thương
Theo gịng nước, lững lờ trôi,
Thuyền ai nghiêng mái chèo bên chùa Thiên Mụ
Ngược bến B ao Vinh theo t́nh nước mây ?
‘’Bài Thơ Huế’’ :
Bài thơ Huế dệt bằng gấm vàng,
Dệt bằng mắt nàng nh́n đắm trời thương
Dệt bằng con thuyền lững lờ sông Hương
Có ai qua khúc Trường Tiền
Nh́n nước biếc, vài cô gái Huế nghiêng duyên cười trong nón lả lơi lả lướt
Về nơi mô ? Chiều Nam Giao nhớ người Bến Ngự, nhớ lời ước thề...
‘’Ly Hương’’ :
Chiều nay ly hương
Rời xa nước non ngàn năm luyến lưu, một đời gió sương
Một chiều ly hương úa phai ngày ấy
Con tàu lướt sóng về đến trời Âu
Tất cả đều muốn diễn tả cái đau đớn tận cùng của hai đứa trẻ đang gặp nhau
nhưng biết trước sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau :
TrờI Âu thăm thẳm, một trời Âu
Ba-Lê vạn ngả lắm phương sầu
Năm năm tháng tháng ngày vô tận
Vẫn nhớ nhung hoài thuở có nhau (Trích thơ ‘’Trời Âu’’ của LMN)
Hoặc nhiều lúc, trên đất khách, tôi muốn hét gào nỗi cô quạnh đớn đau :
Em của anh giờ nay ở đâu ?
T́m em anh dạo suốt canh thâu
Đường chia hai ngả anh đâu biết
Là sẽ ngàn năm vĩnh biệt nhau (Trích thơ ‘’T́m Em’’ của LMN)
Trở lại năm 1945 xa xưa, nhân cuộc hành tŕnh về lại nguồn gốc hứng
cảm TMBS nghĩa là trong một quá khứ của t́nh yêu lăng mạn và nhung nhớ
thương đau, tâm tưởng lại đưa đẩy tôi về thời gian sau Cách Mạng tháng 8.
Gia đ́nh tôi dạo ấy ở làng Phú Xuân, bên bờ sông B́nh Lục, cạnh đô thành
Huế, với Đập Đá chia cách sông này với Hương Giang, và bên kia là Thôn Vỹ
Dạ... Tôi c̣n măi trong trí nhớ (một thiếu niên 15 tuổi) cái h́nh ảnh hư
ảo của một ban ca nhạc rong, đi chỗ này qua chỗ khác để truyền bá tinh
thần cách mạng và luôn tiện là một cách sinh sống trong thời khói lửa,
trong đó có một ông già chơi đàn accordéon và một đứa trẻ chừng 9 tuối,
cùng hát bài ‘’Sơn La’’ (thật giống như trong ‘’Sans Famille’’ của Hector
Malot), theo cung ré mineur với những âm thanh b́nh dị : sol sol, la la,
ré ré... (tôi không nhớ rơ đoạn tiếp), nhưng sau này biết là của Đỗ Nhuận
(có người nói ‘’ông già’’ ấy chính là nhạc sĩ Đỗ Nhuận). Nhạc rất buồn làm
tôi rưng rưng nước mắt, bóc túi t́m xem có đồng xu nào để trả ơn...
Đêm ấy, trên đường về nhà dưới ánh trăng, tôi bàng hoàng liên tưởng
đến bức tranh linh động mà tôi vừa chứng kiến và văng vẳng c̣n trong tâm
trí tiếng hát đau khổ như thốt tự đáy ḷng của những kẻ bị tù đày dưới
thời Pháp thuộc. Có lẽ ở trong tiềm thức và trong lúc sáng tác TMBS bốn
năm sau, bằng cung ré mineur, những nốt nhạc b́nh dị và dễ thương đă thúc
đẩy tôi làm rất mau chóng cho xong bài hát mà sau này cũng rất mau chóng
sẽ trở thành một t́nh ca muôn thuở : NgườI hẹn cùng ta đến bên bờ suối,
có nhiều người hát chơi, đổi thành : Người hẹn cùng ta đến bên bụi chuối
để đánh dấu những cuộc gặp gỡ ở vùng quê, hẻo lánh... Tôi đă không bực
ḿnh v́ người ta muốn đổi lời cho vui như thế (mà chỉ mỉm cườI và hănh
diện) v́ đó là một chứng minh rằng Trăng Mờ Bên Suối sẽ sống măi trong tâm
hồn và lư tưởng của những kẻ thương mến nhau ! Xin cảm ơn các bạn xa gần :
tôi vừa t́m ra một trong những lư lẽ xác đáng về sự thành công vĩnh viễn
của một bài hát tôi viết cách đây hơn nửa thế kỷ.
Xin tạm ngừng và nhân dịp Đại Học Hè Khóa VI tại OSLO 2002 do Trung
Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (Association CONVERGENCE) tổ chức với chủ đề
T̀NH YÊU, tôi xin mến tặng (một lần nữa) nhạc phẩm TMBS cho tất cả đồng
bào khắp năm châu đă, đang, hoặc sẽ thề nguyện yêu nhau trọn đời, với nhau
và với t́nh sông nước như Tản Đà tiên sinh đă nhắc nhở năm 1922 (Thề Non
Nước : Thơ Tản Đà, Nhạc Lê Mộng Nguyên) :
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi măi không về cùng non
Nhớ lời ‘’nguyện nước thề non’’
Nước đi chưa lại, non c̣n đứng không...
...
Ngàn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề.
OSLO, ngày 06 tháng 07 năm 2002.
Lê Mộng Nguyên
Nhạc sĩ, Giáo sư Hàn Lâm Tiến sĩ Quốc Gia Khoa Học Chính Trị (Đại Học
Paris)
 |